|
|||||||
Cần sớm chấm dứt tình trạng đơn ngữ ở Việt NamĐăng lúc: Thứ sáu - 09/09/2016 17:58 - Người đăng bài viết: adminVăn bản về “chủ nghĩa anh hùng cách mạng” của Hồ Chủ tịch, vừa dùng tiếng Hán hiện đại vừa dùng tiếng Việt. Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Ảnh: Đình Hưng. Từ thế kỷ X đến năm 1945, Việt Nam luôn là lãnh thổ sử dụng song ngữ (Hán- Việt, với hai văn tự chữ Hán và chữ Nôm), có khi là tam ngữ (Hán, Việt, Pháp) trong thời Pháp thuộc. Theo TS Trần Trọng Dương, cần sớm chấm dứt tình trạng đơn ngữ hiện nay và giải pháp thỏa mãn tất cả các chiều kích và các khía cạnh về lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam là chính sách tam ngữ Việt - Anh - Hán. Sau báo cáo của PGS Đoàn Lê Giang (Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh) tại hội thảo do Viện Nghiên cứu Hán Nôm tổ chức, vấn đề đưa chữ Hán vào chương trình học phổ thông đã gây nên những tranh luận sôi nổi và đa chiều trên các phương tiện thông tin đại chúng và các diễn đàn xã hội. Các nhà chuyên môn (phần lớn là các nhà Hán học, các giảng viên đại học) đều ủng hộ tầm quan trọng của chữ Hán đối với sự giữ gìn văn hóa và bản sắc dân tộc, cũng như một phát triển bền vững dài hơi cho tương lai của đất nước. Những người phản đối cũng đưa ra không ít các lý do để phản biện, khoa học cũng có, không khoa học cũng có. Song vấn đề dạy chữ Hán, muốn nói gì thì nói, lại là một vấn đề thuộc phạm vi quản lý vĩ mô, chịu ảnh hưởng trực tiếp của chính sách ngôn ngữ, chính sách giáo dục và chủ trương chính trị. Bài viết này sẽ thảo luận về nguyên nhân lịch sử của viêc sử dụng chữ Hán ở Việt Nam trong quá khứ cũng như những ý kiến về vấn đề chính sách ngôn ngữ, và việc dạy chữ Hán ở xã hội Việt Nam hiện nay.
Nhiều người bảo rằng tôi đang ngụy biện chăng? Bởi trong thế kỷ XX, Việt Nam đã đánh cả Pháp lẫn Mỹ và Trung Quốc mà chẳng cần đến chữ Hán. Xin thưa rằng, đúng! Chúng ta đã đánh cả ba cường quốc bằng hai thứ vũ khí khác: cách mạng và chiến tranh. Nhưng chiến tranh chỉ là một cách giải quyết bất đắc dĩ; bảo vệ độc lập dân tộc bằng chiến tranh, đi đến hòa bình bằng chiến tranh chỉ là tình thế “ở cuối chân tường” khi chúng ta chỉ là một quả bóng trong chân các nước lớn. Muốn giữ vững độc lập dân tộc một cách bền vững, muốn xây dựng đất nước an toàn thì lại phải bằng công cụ văn hóa, phải tự cường dân tộc. Dùng văn hóa để thoát khỏi tình trạng tụt hậu, dùng văn hóa để thoát khỏi sự kiềm tỏa của các thế lực ngoại bang, đặc biệt là Trung Quốc, là bài toán đặt ra cho chúng ta hôm nay. Khi không có tiếng Hán/ chữ Hán làm sao chúng ta có thể chơi với Trung Quốc, làm ăn với Trung Quốc, buôn bán và đấu tranh với Trung Quốc? Lại cũng sẽ có người lạc quan nói rằng, ta vẫn đang làm ăn bình thường với Trung Quốc đấy thôi. Xin thưa, vấn đề ở chỗ chúng ta đã/ đang chơi với Trung Quốc như thế nào, làm ăn với Trung Quốc như thế nào, và đấu tranh với Trung Quốc trên Biển Đông như thế nào? Làm sao chúng ta chỉ có thể buôn bán, ngoại giao, đấu tranh với Trung Quốc mà chỉ bằng nhõn… tiếng Việt? Công việc ấy không chỉ thuộc về mấy nhà ngoại giao, vài nhà nghiên cứu, mà phải là sự cố gắng của các chính khách, các cơ quan kinh tế, hệ thống thông tấn,… các tầng lớp nhân dân, các giai tầng xã hội, các lực lượng trong toàn thể khối đại đoàn kết dân tộc. Việt Nam chỉ có thể chọn một chính sách ngôn ngữ và văn hóa hợp lý chứ không thể nào thay đổi/ lựa chọn được vị trí địa lý nào khác. Muôn đời Trung Quốc vẫn là láng giềng của ta, muôn đời Trung Quốc vẫn là bạn của ta, và muôn đời Trung Quốc vẫn cứ là mối nguy hiểm tiềm tàng của ta. Chơi/làm ăn với Trung Quốc chẳng phải là chuyện thời sự hiện tại mà là vấn đề sống còn của nhiều thế hệ nữa. Đến đây, mọi người chắc cũng đoán ra, người viết bài này định nói gì. Phải, tôi nghĩ rằng Việt Nam cần phải xóa bỏ chính sách đơn ngữ đơn văn tự (tiếng Việt và chữ Latin) để dần trở thành một quốc gia song ngôn ngữ- thậm chí đa ngôn ngữ. Bài toán nào để giải quyết chính sách đơn ngữ ở Việt Nam? Như trên đã viết, tôi đề xuất một sự thay đổi về chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam: chính sách đa ngôn ngữ- đa văn tự. Từ thế kỷ X đến năm 1945 (trong quãng 2000 năm), Việt Nam luôn là lãnh thổ sử dụng song ngữ (Hán- Việt, với hai văn tự chữ Hán và chữ Nôm), có khi là tam ngữ (Hán, Việt, Pháp) trong thời Pháp thuộc2. Từ năm 1945 trở lại đây, Việt Nam chính thức là một nước đơn ngữ3. Việc sử dụng duy nhất tiếng Việt và chữ cái Latin khiến cho ai cũng có thể biết đọc biết viết, đó là một ưu điểm. Nhưng tình trạng đơn ngữ quá lâu, khiến cho Việt Nam ngày càng trở thành “ốc đảo”, lạc hậu so với khu vực và thế giới. Nếu so sánh với Malaysia, Singapore, Philippines và một số nước có chính sách song ngữ-đa ngữ khác thì tình hình tụt hậu của Việt Nam quả là đáng ái ngại. Biểu đồ sử dụng ngôn ngữ tại Việt Nam (Nguyễn Tài Cẩn 2001)4 Vì thế, cần chấm dứt càng sớm càng tốt tình trạng đơn ngữ ở Việt Nam. Điều đó có nghĩa là bên cạnh tiếng mẹ đẻ, người Việt buộc phải biết sử dụng ít nhất một ngoại ngữ đủ để sử dụng trong đời sống xã hội và giao tiếp với thế giới. Vấn đề là nhà nước cần phải có chính sách và chiến lược cụ thể trong vòng tối thiểu quãng 20- 50 năm tới để đào tạo những thế hệ mới và nâng cấp thế hệ cũ. Lộ trình tiến hành có thể thực hiện dần dần từng bước một. - Nhà nước cần phải ra một quyết định về chính sách ngôn ngữ công nhận một ngoại ngữ nào đó là ngôn ngữ chính thức thứ hai/ hoặc thứ ba bên cạnh tiếng Việt. - Mọi văn bản hành chính giấy tờ (từ cấp thấp nhất đến cấp cao nhất), các giao dịch, buôn bán, bằng cấp,… đều phải dùng tối thiểu hai thứ tiếng. - Hệ thống giáo dục phải dần dần coi một ngoại ngữ là ngôn ngữ giảng dạy chính thức trong các trường. Để từ đó, giáo dục đại học sẽ giảng dạy bằng ngoại ngữ. Một vấn đề quan trọng nữa là cần phải xác định nên chọn ngoại ngữ nào làm ngôn ngữ thứ hai ở Việt Nam. Có hai lựa chọn đưa ra, đó là tiếng Anh và tiếng Hán hiện đại (còn gọi tiếng Trung/ tiếng Hoa). + Tiếng Anh có lẽ sẽ là giải pháp nhiều người lựa chọn nhất, trong đó có cả người viết bài này. Điều này hẳn không phải bàn cãi nhiều. + Tiếng Hán hiện đại sẽ bị không ít người phản đối. Nhưng cũng nên nhắc lại rằng, “biết mình biết người” ấy là một vũ khí để tự bảo vệ chính mình.
Và bài toán đưa chữ Hán vào nhà trường Đến đây, bạn đọc thấy rằng tôi đã đi quá xa và quá rộng so với chủ đề ban đầu. Song, mọi việc sẽ là vô ích (do phản ứng ngược từ xã hội), khi các chuyên gia đề xuất giảng dạy chữ Hán trong trường phổ thông, mà không đặt nó vào bối cảnh chính trị và văn hóa của Việt Nam đương đại. Chữ Hán (dạy theo kiểu Hán Nôm) mặc dù rất cần thiết6, song vẫn chỉ là vấn đề thứ yếu khi đặt cạnh chính sách song ngữ. Chữ Hán cần phải được cung cấp một “sinh quyển”. Nếu như, tiếng Hán hiện đại (chứ không phải Hán cổ, Hán Nôm7) được công nhận là một trong ba ngôn ngữ chính thức ở Việt Nam, thì lúc đó việc dạy chữ Hán8 trong trường phổ thông chỉ là vấn đề về kĩ thuật. Vấn đề này giới khoa học của Việt Nam hoàn toàn có thể vạch ra một lộ trình khoa học trong chừng mực có thể trong vòng 20-50 năm tới. Khi ấy, giảng dạy các chữ Hán đơn lẻ (với tư cách là những thành tố của tiếng Việt, được lồng ghép trong môn tiếng Việt; và trong môn văn học) chỉ đặt ra một lộ trình vừa phải cho mỗi cấp. Ví dụ, cấp 1: 100-300 chữ; cấp 2: 1.000 chữ thông qua việc dạy tiếng Hán và các từ vựng Hán Việt; cấp 3: dạy tiếng Hán hiện đại, song song với tiếng Anh; đại học và sau đại học: tiếng Hán và tiếng Anh cho chuyên ngành. Mô hình giáo dục theo hình kim tự tháp (xem ở dưới) với các tri thức khoa học được giảng dạy bằng ngoại ngữ sẽ là một nền tảng cơ bản để biến các công dân tương lai của đất nước trở thành công dân quốc tế.
Mặt khác, đào tạo đa ngữ đại trà sẽ giúp chúng ta luôn có những người hoạt động ở mọi phương diện của cuộc sống. Ngành nghề nào ở Việt Nam mà chẳng không làm việc với tiếng Anh hay tiếng Hán? Dù sản xuất công- nông- ngư nghiệp, hay văn hóa xã hội, dù là du lịch thương mại hay nghiên cứu học tập, ở đâu cũng cần ngoại ngữ? Nếu không có ngoại ngữ chúng ta chỉ có thể xuất khẩu lao động thô, xuất khẩu dầu thô, bán tài nguyên khoáng sản...
Nếu như, Việt Nam có một chính sách tam ngữ, thì văn hóa xã hội Việt Nam sẽ có một đời sống mới. Bởi, tăng cường ngôn ngữ toàn dân là nâng cao sức kháng thể, sức tự cường của toàn dân tộc. Việt Nam vừa muốn hòa bình với Trung Quốc, lại vừa muốn làm bạn với tất cả các nước. Việt Nam muốn vừa giữ được bản sắc dân tộc, lại vừa muốn phát triển trở thành một nước giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu (như lời dạy của Hồ Chủ tịch). Không còn cách nào khác ngoài nhiệm vụ giáo dục (điều 61 của Hiến pháp 2013), mà trong giáo dục thì giáo dục song ngữ, giáo dục đa ngữ là một nền giáo dục kĩ năng, nhằm chắp cánh cho các công dân tương lai hòa nhập vào thế giới đương đại. 2 DeFrancis, John.1977. Colonialism and Language Policy in Vietnam. The Hague: Mouton. Paris & New York. 3 Sắc lệnh 19 của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 08/9/1945, ra lệnh: "Việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Hạn trong một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Quá hạn đó, một người dân Việt Nam trên 8 tuổi mà không biết đọc và biết viết chữ quốc ngữ đó sẽ bị phạt tiền". Điều thứ 18 trong Hiến pháp năm 1946 quy định: "Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, v�phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ". [Nguyễn Thiện Giáp. 2006. Chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. TC Ngôn ngữ. Số 1. Tr. 1 - 10]. 4 Nguyễn Tài Cẩn. 2001. Một số vấn đề về ngôn ngữ văn tự- văn hóa. Nxb Đại học Quốc gia. Hà Nội. tr. 401- 404. [Chuyển dẫn theo biểu đồ của Nguyễn Thị Hiệp. 2016. Nghiên cứu từ gốc Hán trong sách Ngữ văn 9, bậc trung học cơ sở. Luận văn Thạc sĩ. Học viện Khoa học Xã hội]. 8 Xin lưu ý là dạy tiếng Hán hiện đại thì lại có hai loại chữ là giản thể và phồn thể. Nhưng vấn đề này có thể giải quyết về sau.
Tác giả bài viết: Trần Trọng Dương, Tiến sĩ, Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Nguồn tin: Tia Sáng
Từ khóa:
văn bản, chủ tịch, dùng tiếng, hán hiện, lịch sử, quốc gia, từ thế, đến năm, việt nam, sử dụng, song ngữ, hán việt, văn tự, chữ hán, và chữ, tam ngữ, tình trạng, đơn ngữ, mãn tất, cả các, chiều kích, và các, khía cạnh, về chính, trị văn, hóa xã, hội của, chính sách, việt anh, đại học, nghiên cứu, hán nôm, vấn đề, phổ thông, gây nên, xã hội, quan trọng, văn hóa, dân tộc, cũng như Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
|
Thống kê truy cập Website
|
||||||
Ý kiến bạn đọc