|
|||||||
Hấp dẫn, điện và từ học trong trái tim vật lý hiện đạiĐăng lúc: Thứ năm - 27/10/2016 18:33 - Người đăng bài viết: admin
Cách đây không lâu, nhân sự kiện phát hiện sóng hấp dẫn, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) đã tổ chức một buổi nói chuyện thảo luận về chủ đề này. Tại buổi nói chuyện, một nhà vật lý có nhiều kinh nghiệm đã đặt ra một câu hỏi: tại sao trọng lực lại là lực tensor (hay chính xác hơn tại sao hạt truyền tương tác hấp dẫn - graviton - lại có spin 2). Vì không có ai trong hội trường đưa ra câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi này nên tôi nghĩ đây có thể là chủ đề thú vị cho một bài báo trên Tia Sáng. Những dòng tôi viết dưới đây với mục đích bình luận về sự phong phú và sâu sắc của vật lý ẩn đằng sau câu hỏi tưởng chừng như đơn giản này. Tôi sẽ cố gắng sử dụng ngôn ngữ đơn giản mà người đọc có thể hiểu được. Bài viết không phải là một bài giảng mà chỉ đơn giản hy vọng kích thích trí tò mò của người đọc.
Lực Coulomb và Newton: lực tầm xa Ta có thể nhận ra điểm chung giữa lực Coulomb và Newton là độ lớn của chúng tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa hai điện tích điểm hoặc hai chất điểm. Điều này có nghĩa là các lực này không bao giờ bằng không, thậm chí ở những khoảng cách rất lớn. Thực vậy, đó là một đặc điểm hết sức quan trọng của trọng lực: trọng lực trên Trái đất là tổng hợp sức hút của tất cả vật chất trên hành tinh này; đó là một lực có độ lớn đáng kể mặc dù cường độ của lực hấp dẫn bị giới hạn bởi hằng số hấp dẫn (hằng số Newton G) có giá trị rất nhỏ; thể tích khổng lồ của Trái đất đã bù đắp cho cường độ nhỏ của trọng lực. Tuy nhiên, lực Coulomb lại không giống như vậy. Nếu ta có một tập hợp những điện tích điểm tích điện cùng dấu, chúng sẽ ngay lập tức đẩy nhau và rất khó để có thể giữ chúng lại với nhau trong một thể tích xác định được. Vật chất thông thường được cấu tạo bởi các hạt mang điện tích dương và âm, tương ứng với hạt nhân và các electron. Với tập hợp các hạt tích điện như vậy, bất kỳ một thể tích vĩ mô nào về cơ bản cũng đều trung hòa về điện và do đó không tạo ra lực đáng kể ở khoảng cách lớn: các điện tích chắn lẫn nhau, hay còn gọi là hiệu ứng chắn Debye. Tách các điện tích dương khỏi các điện tích âm trong một tập hợp như vậy là rất khó và đó là chủ đề cơ bản của vật lý plasma: hệ điện tích sẽ ngay lập tức chống lại ngoại lực bởi những chuyển động theo hướng tái thiết lập tính trung hòa của nó, tạo nên sóng lan truyền trong plasma như sóng Alfven. Tuy nhiên, lực Coulomb lớn hơn lực hấp dẫn Newton nhiều lần, lên đến 1039 lần, do đó nhiều hiệu ứng thú vị có thể được quan sát với lực Coulomb: ví dụ, thí nghiệm Millikan đo hiệu ứng khi thêm một điện tử lên trên bề mặt một giọt dầu trung hòa về điện, ở đó các nguyên tử của giọt dầu chứa khoảng 1015 electron; một ví dụ khác về giới hạn trên tốt nhất về khối lượng của photon, 10-60 g, thu được từ thực nghiệm giả thuyết lực hấp dẫn và lực điện từ của Đám mây Magellan Nhỏ cân bằng với nhau. Hấp dẫn và nguyên tắc Mach Một điều đặc biệt của hấp dẫn là: khối lượng “động lực” m trong định luật Newton (F=mM/r2) lại chính xác bằng khối lượng “quán tính” (m trong K=1/2mv2, ở đó K là động năng và v vận tốc của vật). Điều này làm cho trọng lực rất khác so với các lực khác: trong cùng một trường, chẳng hạn như trọng trường của Trái đất, tất cả các trọng vật đều rơi như nhau bất kể giá trị khối lượng của chúng là bao nhiêu. Điều này lần đầu tiên được Galileo chứng minh với thí nghiệm tháp nghiên Pisa nổi tiếng của ông. Đặc điểm này gợi nên việc xem hấp dẫn như là sự biến dạng của không gian do trọng vật nằm trong đó gây ra, khác biệt với các loại lực khác như lực Coulomb. Cách tiếp cận này chính là ở cơ sở của thuyết tương đối tổng quát và nó giúp giải quyết một vấn đề đã làm đau đầu nhiều nhà vật lý trong nhiều thế kỷ: không gian vẫn vậy với những gì nó chứa đựng hay những thứ mà không gian chứa đựng mới đem lại ý nghĩa cho nó? Hay câu hỏi cũng có thể được đặt như sau: Không gian là tuyệt đối hay tương đối? Nhiều triết gia và nhà khoa học đã thảo luận về câu hỏi này trong nhiều thế kỷ qua, trong số đó có thể kể đến Democritos, Aristotle, Plato, Descartes, Leibniz, Newton, Huygens, Berkeley, Kant và Euler. Khi quan sát thấy hình dạng bề mặt của mặt nước trong một cái xô đứng yên và một cái chuyển động quay khác nhau, Newton đã đưa ra khái niệm chuyển động tuyệt đối: sự quay so với không gian tuyệt đối là nguyên nhân của sự khác biệt. Quan điểm về không gian tuyệt đối gặp phải nhiều phê phán, nổi tiếng nhất là phê phán do Mach đưa ra. Những phân tích của ông về vấn đề này có ảnh hưởng lớn tới Einstein, người gọi công trình của Mach là Nguyên lý Mach.Mach khẳng định rằng chuyển động tuyệt đối và không gian tuyệt đối chỉ là sản phẩm của trí não, không thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm, do vậy, đó là những khái niệm siêu hình vô nghĩa và không nên được sử dụng trong khoa học. Ông nói, tất cả các định luật của cơ học đều dựa vào cảm nhận về vị trí và chuyển động tương đối và chúng ta không được phép sử dụng các định luật này ngoài giới hạn của chúng. Con lắc Foucault dao động trong mặt phẳng cố định đối với các ngôi sao mà không bị ảnh hưởng bởi sự quay của Trái đất là bằng chứng cho hệ quy chiếu gắn với toàn bộ Vũ trụ. Bài viết này sẽ không thảo luận sâu hơn nữa về điểm này, những thảo luận sâu hơn có thể tìm thấy trong tài liệu tham khảo sau đây: Herbert Lichtenegger và Bahram Mashhoon, Phép đo Điện-Từ-Hấp dẫn: Một công việc đầy thách thức, ed. L. Iorio, Nova Science, New York, 2007, arXiv: vật lý / 0.407.078. Điện và Từ: lực vector Điểm đặc biệt của lực Coulomb là nó luôn được xem xét cùng với lực từ. Một điện tích chuyển động sẽ tạo ra từ trường và, ngược lại, trường từ tác động lực lên điện tích chuyển động. Hai dây dẫn song song mang theo hai dòng điện chạy cùng hướng sẽ hút nhau. Đây là kết quả của trường từ sinh ra bởi dòng điện của dây này tại vị trí của dây kia. Chú ý rằng cường độ lực từ trong ví dụ này nhỏ hơn rất nhiều so với lực Coulomb mà các electron chuyển động trong hai dây dẫn có thể đẩy nhau; tuy nhiên, do hiệu ứng chắn đề cập ở phần trên (dây điện được làm bằng vật chất trung hòa về điện vì vậy lực đẩy rất lớn giữa các electron mang điện tích âm trong hai dây cơ bản bị triệt tiêu) nên lực từ, không bị tác động bởi hiệu ứng chắn, trở thành lực áp đảo. Vì sự liên hệ sâu sắc giữa điện và từ nên lý thuyết về tương tác điện từ hiện đại mô tả lực từ là sự điều chỉnh tương đối tính của lực Coulomb, bình luận sâu hơn về điều này vượt ra ngoài phạm vi của bài viết này. Ở đây, đủ để nói rằng, điện từ đơn giản được mô tả dưới dạng một trường điện E và trường từ B và lực tác động lên một điện tích q chuyển với vận tốc v là F=q(E+v×B). Sự biến đổi của E và B khi chuyển hệ quy chiếu được mô tả một cách đẹp đẽ là một tensor bậc 4, được gọi là tensor điện từ, bản thân nó có thể được viết dưới dạng đạo hàm không và thời gian của một vector bốn chiều. Thế năng điện từ bao gồm thế năng điện (đại lượng vô hướng, thành phần thời gian) và thế năng từ (đại lượng vector, thành phần không gian). Hình thức luận này cho phép ta viết toàn bộ lý thuyết điện từ (các phương trình Maxwell) dưới dạng hết sức đơn giản và nó khiến cho bản chất vector của tương tác điện từ trở nên rõ ràng và do đó lượng tử truyền tương tác, photon, của trường điện từ có spin bằng 1. Trọng lực: lực tensor Rõ ràng lực hấp dẫn Newton và lực Coulomb có bản chất rất khác nhau: tất cả các trọng vật đều “dương” trong khi điện tích có thể mang điện tích âm hoặc dương. Hơn nữa, một trọng vật chuyển động không tạo ra trường tương đương với trường từ. Với các điện tích cùng dấu, lực Coulomb là đẩy trong khi lực Newton luôn là lực hút. Cũng có giả thuyết cho rằng có thể tồn tại các hạt có khối lượng âm, đặc biệt là phản hạt, có thể bị đẩy hấp dẫn bởi các hạt thông thường. Tuy vậy, ta có thể bỏ qua những giả thuyết này một cách an toàn vì cho đến nay chưa có bằng chứng thực nghiệm nào ủng hộ sự tồn tại của chúng. Giới thiệu về thuyết tương đối và thuyết lượng tử Mở rộng những phát triển trên với thuyết tương đối hẹp là rõ ràng, nó không làm phức tạp thêm vấn đề thậm chí còn làm cho lý thuyết trở nên đơn giản và đẹp hơn. Điều này đặc biệt đúng đối với trường hợp điện từ; những sự phức tạp ban đầu được đưa vào lý thuyết bởi những người tiên phong, chẳng hạn như việc đưa vào thế trễ không còn cần thiết khi lý thuyết được xem xét trong khuôn khổ thuyết tương đối hẹp. Khi mô tả lượng tử lý thuyết này, sóng điện từ lan truyền với vận tốc của ánh sáng, xuất hiện như là đối tượng truyền tương tác giữa các hạt tích điện và dẫn đến việc đưa vào một vector có spin bằng 1, photon.Với hợp của trọng lực, sự ra đời của thuyết tương đối hẹp cũng làm đẹp thêm những luận cứ phát triển trong phần trước. Tensor ứng suất và biến dạng bây giờ được mở rộng cho bốn chiều không-thời gian; tensor ứng suất trở thành tensor ứng suất-năng lượng; còn tensor biến dạng chính là tensor Ricci mô tả sự biến dạng của không-thời gian. Phương trình Einstein chỉ đơn giản là sự biểu diễn tương quan giữa hai tensor bậc 4 này.Tuy nhiên, khi đưa các hiệu ứng lượng tử vào thuyết hấp dẫn (lượng tử hóa thuyết hấp dẫn), ta gặp phải những khó khăn rất cơ bản. Nói đại khái, hệ thức bất định Heisenberg không cho phép tích của khối lượng với kích thước của một vật nhỏ hơn một giá trị xác định (bằng hằng số Planck). Vì vậy, khi thể tích của vật trở nên rất nhỏ, khối lượng của nó không thể nhỏ hơn một giá trị xác định và do đó lực Newton trong vật cũng không thể nhỏ hơn. Tại khoảng cách rất nhỏ, gọi là thang Planck, cỡ khoảng 10-33 cm, lực Newton tăng nhanh hơn so với sự suy giảm kích thước, và trở thành quá lớn đối với các kích thước của vật, làm cho thuyết lượng tử và thuyết hấp dẫn trở nên không còn tương thích với nhau (nhớ rằng điều này xảy ra vì lực Newton tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách, khi khoảng cách rất nhỏ lực trở nên rất lớn). Vấn đề này là một trong những vấn đề chính của vật lý hiện đại ngày nay. Do đó, nói đúng ra, hiện tại nói về graviton là vô nghĩa (graviton là hạt truyền tương tác hấp dẫn trong thuyết hấp dẫn lượng tử). Tuy nhiên, thực tế, người ta có thể viết nên một lý thuyết hấp dẫn lượng tử gần đúng và thuyết phục chính mình rằng năng lượng phát ra bởi tương tác hấp dẫn có dạng sóng, được gọi là sóng hấp dẫn. Bản chất tensor của hấp dẫn ngụ ý rằng những sóng như vậy gây ra biến dạng (tứ cực) tensor khi truyền qua vật chất, và phải được liên kết với graviton có spin bằng 2 trong biểu diễn lượng tử của nó. Cho đến gần đây, ta mới thu được bằng chứng về sóng hấp dẫn một cách gián tiếp: nhờ phép đo suy giảm năng lượng rất nhỏ của hệ pulsar đôi năm 1974, công trình được trao giải thưởng Nobel cho hai nhà khoa học Hulse và Taylor. Mới gần đây, sóng hấp dẫn phát ra bởi sự và chạm và hòa nhập của hai lỗ đen đã được phát hiện lần đầu tiên một cách trực tiếp. Lỗ đen Trước khi kết thúc chủ đề này, tôi muốn nói thêm một vài điều liên quan đến lỗ đen. Trái với những gì được phát biểu bởi một trong những diễn giả trong buổi nói chuyện tại VAST mà tôi đề cập bên trên, gần ba mươi năm nay, sự tồn tại của lỗ đen không còn là điều gây tranh cãi; hơn nữa nghiên cứu về lỗ đen là một chủ đề lớn và phong phú của vật lý thiên văn hiện đại. Tất nhiên, những gì ta có thể quan sát được không phải là bản thân lỗ đen vì không có gì, kể cả ánh sáng, có thể thoát ra khỏi lỗ đen nhưng ta nhận được tín hiệu phát ra bởi vật chất chuyển động xoắn ốc xung quanh lỗ đen trước khi bị nuốt chửng. Đặc biệt, lỗ đen Sagittarius A* với khoảng cách gần (chỉ cách chúng ta khoảng 24.000 năm ánh sáng) ở trung tâm thiên hà của chúng ta, Dải Ngân hà, cho phép tiến hành những nghiên cứu rất chi tiết về tính chất của nó. Với một ngôi sao, khi đã đốt cháy phần lớn hydro trở thành heli, các lực điện từ và hạt nhân không còn đủ mạnh, lõi heli suy sụp dưới tác động của trọng lực. Khi ngôi sao ban đầu đủ nặng, lõi của nó có thể đạt đến một kích thước mà vận tốc thoát của một vật từ bên trong lõi đạt đến vận tốc của ánh sáng, không có gì có thể thoát ra được: khi đó một lỗ đen mới được hình thành. Kích thước tới hạn mà điều này xảy ra gọi là bán kính Schwarzschild với giá trị khoảng 5 km trên mỗi khối lượng Mặt trời. Mặt trời của chúng ta không đủ nặng để có thể co lại tới kích thước nhỏ (5 km) như vậy, do đó nó sẽ không trở thành một lỗ đen. Nhưng có nhiều ngôi sao đủ lớn sẽ biến thành lỗ đen, trong đó có nhiều trường hợp đã được nghiên cứu hết sức chi tiết. Lỗ đen như vậy được gọi là những lỗ đen sao, chúng thường di chuyển dần dần về phía tâm thiên hà và cuối cùng bị nuốt bởi hố đen siêu lớn tại đó. Thật vậy, mỗi thiên hà đều có một lỗ đen lớn ở trung tâm của nó, với khối lượng dao động từ một triệu đến một tỷ lần khối lượng mặt trời; Sagittarius A* có khối lượng bằng ba triệu lần khối lượng mặt trời, với khối lượng như vậy đây là một lỗ đen thiên hà tương đối nhỏ. Ngay sau Vụ Nổ lớn (Big Bang), khi các sao và các thiên hà bắt đầu hình thành, Vũ trụ, đã và đang liên tục nở ra, mật độ của Vũ trụ trong quá khứ cao hơn nhiều so với hiện nay. Tương tác giữa các thiên hà xảy ra thường xuyên hơn và sự sáp nhập của các thiên hà là yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng khối lượng của những lỗ đen thiên hà; vai trò của các lỗ đen ở trung tâm các thiên hà tới sự tiến hóa về khối lượng này chưa được hiểu rõ, đây một chủ đề được tập trung nghiên cứu trong vật lý thiên văn hiện nay. Phạm Ngọc Điệp dịch Đầu tiên xem xét ứng suất trong một đĩa phẳng (2-D) tạo nên bởi hai lực nén vuông góc F và f lên một hình vuông cơ sở (hình bên trái). Lực nào là các lực tác dụng lên một hình vuông được quay một góc 45o? Như được chỉ ra trong hình bên phải, những lực này gồm lực nén FN+fN và lực trượt FT-fT. Hình vuông đối chiếu trong hình bên trái tương ứng với hướng ưu tiên trên đó ứng suất trượt triệt tiêu. Do đó, ứng suất được xác định bởi ba tham số: góc xác định hướng ưu tiên này và hai lực nén liên kết với nó. Số 3 là số tham số của tensor đối xứng 2×2. Mở rộng sang 3-D là rõ ràng: bây giờ chúng ta cần ba góc để xác định hướng ưu tiên nơi ứng suất trượt triệt tiêu và 3 lực nén cơ bản liên kết với nó, có nghĩa là tổng cộng có 6 tham số, số lượng các tham số xác định một tensor đối xứng 3×3, tensor ứng suất Cauchy. Lưu ý rằng khi F=f ứng suất trượt triệt tiêu ở mọi hướng: đây là trường hợp của chất lỏng ở trạng thái cân bằng khi tất cả các ứng suất được xác định bởi một giá trị áp suất.
Tác giả bài viết: Pierre Darriulat
Nguồn tin: Tia Sáng Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
|
Thống kê truy cập Website
|
||||||
Ý kiến bạn đọc