|
|||||||
Thiếu cơ hội tham gia sinh hoạt quốc tế, nền khoa học sẽ bị cô lậpĐăng lúc: Thứ sáu - 02/12/2016 01:31 - Người đăng bài viết: admin
Theo tôi, cơ chế quản lý các viện nghiên cứu cơ bản như hiện nay cũng đã tương đối ổn, ít nhất đối với các viện về khoa học tự nhiên. Tuy nhiên nhiều việc còn phụ thuộc vào cấp trên trực tiếp (như Viện Hàn lâm hay bộ chủ quản) mà ở cấp này vẫn còn một số mắc mứu chưa được giải quyết thỏa đáng. Và một trong những số đó có lẽ là mức độ hội nhập quốc tế ở khoa học cơ bản của ta nói chung còn yếu và thiếu cơ chế khuyến khích ứng dụng các thành tựu nghiên cứu cơ bản.
Thu hút chất xám Nhớ lại những năm 1970, chúng ta cũng đã từng có một chương trình phát triển toán học trong 20 năm, na ná như “Chương trình trọng điểm cấp Nhà nước phát triển Toán học” trong đó điểm nhấn quan trọng là thành lập Viện Nghiên cứu Cao cấp về Toán (VIASM) tuy không hoành tráng bằng. Chương trình này với điểm nhấn là xây dựng Viện Toán, nhưng không được dành riêng một khoản kinh phí lớn nào. Thời ấy, đất nước bị cô lập với khối tư bản nên khởi đầu ta chỉ có thể gửi được người đi đào tạo hoặc nâng cao trình độ ở Liên Xô, Ba Lan, Hungary và CHDC Đức. Dần dần, nhờ quan hệ với Pháp, Nhật được tái lập, việc hợp tác với hai nước này có dễ dàng hơn, qua đó họ đã giúp ta rất có hiệu quả trong việc đào tạo cán bộ nghiên cứu trình độ cao. Trong giai đoạn đất nước đang chiến tranh, phải trải qua vô vàn khó khăn, trở ngại, nhưng một số nhà toán học Pháp hàng đầu: Laurent Schwartz, Grothendieck, Dacunha-Castelle, Malgrange, Krickeberg,… -những trí thức vốn có cảm tình đặc biệt với ta từ lâu - cùng với một số giáo sư Việt kiều Pháp có lòng với đất nước như Bùi Trọng Liễu, Nguyễn Xuân Lai (Charles Castaing), Frédéric Phạm, Lê Dũng Tráng; rồi về sau, cả N. Koblitz, trong Ủy ban Mỹ hợp tác khoa học kỹ thuật với Việt Nam – tất cả họ không quản gian lao và cả nguy hiểm nữa mang đến cho chúng ta, cùng với tri thức và kinh nghiệm nghiên cứu, nhiều sách báo, tài liệu khoa học – những thứ chúng ta không mua được vì không có ngoại tệ. Grothendieck mở lớp giảng suốt ba tuần lễ, hằng ngày, trừ chủ nhật, lên lớp buổi sáng, tiếp người học buổi chiều, ngay bên miệng hầm tránh máy bay. Sau đó đến lượt hai ông bà Schwartz cũng sang Hà Nội giảng dạy suốt một tháng, các anh Phạm – Tráng-Chenciner mở seminar liền mấy tuần lễ. Đồng thời họ cũng cố gắng tìm cơ hội đưa một số cán bộ ta ra đào tạo ở nước ngoài. Đặc biệt anh Frédéric Phạm còn biệt phái sang công tác hẳn ở Viện Toán trọn cả năm 1980- 1981 (đem theo cả vợ con), xây dựng một nhóm nghiên cứu mạnh theo chuẩn mực quốc tế. Sự giúp đỡ tận tình đó đã tạo một cú hích thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của toán học trong một thời gian ngắn, đặc biệt trong một số ngành lý thuyết hiện đại sở trường của Pháp và từ đó lan tỏa ảnh hưởng sang các lĩnh vực khác. Tiếp theo đó, từ giữa những năm 1980, Viện Toán tranh thủ được một số khá lớn suất học bổng nghiên cứu Humboldt có tính cạnh tranh quốc tế cao của CHLB Đức (17 suất trong vòng mấy năm), đồng thời hợp tác có hiệu quả với Nhật và Viện Hàn lâm Thế giới Thứ ba ở Ý. Từ đó, từng bước, Viện Toán tiến lên thành một cơ sở nghiên cứu nghiêm túc, vững vàng, ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu và nhà khoa học thành danh trên quốc tế. Đào tạo các nhà khoa học trẻ thành danh Một vấn đề lớn của đội ngũ nghiên cứu khoa học cơ bản (và toán học nói riêng) của ta là tuổi tác của những nhà khoa học đã thành danh trên quốc tế. Nói chung so với nhiều nước, đội ngũ này của ta tuổi trung bình tương đối cao mà ngày càng tăng, trong khi lực lượng trẻ tiếp sức ở trong nước hình như còn khá mỏng, tuy tiềm năng có lẽ không thiếu. Tạo môi trường trao đổi quốc tế Bất cứ khoa học nào cũng đều cần môi trường trao đổi quốc tế rộng rãi thể hiện qua các tạp chí khoa học quốc tế, các hội thảo, hội nghị và nhiều hình thức sinh hoạt học thuật khác, được tổ chức thường xuyên trên thế giới. Thi thoảng cũng có những hội thảo quốc tế được tổ chức ở Việt Nam, đó là những cơ hội rất tốt cho giới khoa học trong nước. Cho nên phải dành kinh phí thích đáng và huy động lực lượng khoa học của ta, ở cả trong nước và nước ngoài, để tổ chức tốt những hội thảo đó. Song dù thế nào thì phần lớn các sinh hoạt học thuật quốc tế quan trọng ít nhiều đều ở nước ngoài, chủ yếu ở các nước phát triển: Mỹ, Nhật, Úc hay châu Âu. Chi phí cho các nhà khoa học của ta, nhất là người trẻ, tham dự các sinh hoạt học thuật đó thường vượt quá xa đồng lương hiện nay của cá nhân, nên phải có cơ chế tài trợ bao gồm hội nghị phí, vé máy bay đi về và tiền ăn ở tại hội nghị. Cho đến nay chúng ta chưa có cơ chế đó (hoặc đã có nhưng xem ra còn nhiều khó khăn thực hiện), và hình như rất ít người quan tâm chuyện này, nên các nhà khoa học trẻ, dù tài năng nhưng rất khó có cơ hội tham gia các sinh hoạt khoa học quốc tế, do đó cũng khó có sức bật phát triển như mong muốn. Trong khi đó, ngay cả ở các nước tiên tiến mà đồng lương của các nhà khoa học cao hơn hẳn chúng ta, hằng năm các đại học và viện nghiên cứu vẫn dành nhiều nguồn kinh phí tài trợ cho những thành viên của họ tham gia các sinh hoạt học thuật quốc tế, coi việc đó là nhiệm vụ cần thiết, đôi khi còn là vinh dự để đảm bảo và nâng cao uy tín của họ trên quốc tế. Khuyến khích ứng dụng những thành tựu nghiên cứu cơ bản Tất nhiên những điểm chưa ổn về cơ chế và cách quản lý các viện nghiên cứu cơ bản còn phụ thuộc tình hình chung của đất nước. Chẳng hạn như chuyện lương của cán bộ nghiên cứu khoa học còn quá thấp. Bên cạnh đó, cơ chế khuyến khích ứng dụng những thành tựu nghiên cứu cơ bản còn rất yếu, hầu như không có gì. Các ngành kinh tế, công nghiệp, dịch vụ trong nước hầu như chẳng có liên hệ gì với giới khoa học. Tất nhiên lỗi ở nhiều bên. Song, đứng về quản lý cần thấy vấn đề đó và suy nghĩ để tác động tích cực đến tình hình, chứ cứ để tự nhiên thì thường bên nghiên cứu chỉ lo nghiên cứu, bên kỹ thuật, công nghệ chỉ lo những ứng dụng đã quen thuộc. Ví dụ, lý thuyết tối ưu toàn cục và nói riêng, lý thuyết tối ưu đơn điệu do tôi và nhiều cộng sự dày công xây dựng trong khoảng vài mươi năm lại đây, từ lâu đã tìm thấy những ứng dụng thực tế bổ ích ở các nước ngoài, đặc biệt gần đây đã được các nhóm khoa học ở Đức, Thụy Điển, Canada, Hongkong, Singapore,… ứng dụng khá tốt trong lĩnh vực công nghệ truyền thông không dây và các hệ thống mạng, nhưng ở Việt Nam là nơi khai sinh ra các lý thuyết đó thì hầu như không ai trong các ngành kỹ thuật, công nghệ nói trên biết đến1. Không chỉ thiệt hại ở chỗ mình làm ra mà mình không khai thác được mà còn đáng tiếc nữa là với tình hình ấy khoa học cơ bản thiếu hẳn động cơ thiết thực để phát triển. Thật ra việc ứng dụng những thành tựu nghiên cứu cơ bản hầu như không có gì cũng có một nguyên nhân, đó là trong đường lối phát triển công nghiệp của đất nước ngay từ đầu ta đã không quan tâm đúng mức xây dựng và phát triển các công nghiệp phụ trợ để từ đó đi lên dần những công nghiệp hoàn chỉnh, mà chỉ muốn đi tắt ngay vào những công nghiệp loại sau này. Hệ quả của đường lối đó là sau mấy chục năm, rốt cuộc Việt Nam tuy đã có những xí nghiệp công nghiệp hiện đại (chẳng hạn về điện tử) nhưng đó chỉ là những cơ sở công nghiệp do nước ngoài đầu tư và xây dựng từ A đến Z, trong đó ta chỉ có đóng góp chủ yếu khâu lắp ráp là khâu có giá trị gia tăng thấp nhất. 1 Tôi đã tập hợp các tài liệu liên quan sao gửi cho một số vị mà tôi nghĩ có thể giúp cải thiện tình hình, nhưng không hề được hồi âm.
Tác giả bài viết: Hoàng Tuỵ
Nguồn tin: Tia Sáng
Từ khóa:
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
|
Thống kê truy cập Website
|
||||||
Ý kiến bạn đọc