|
|||||||
Nếu xếp hạng là một căn bệnh, đối sánh có phải là thuốc chữa? (Kỳ cuối)Đăng lúc: Thứ tư - 15/07/2015 15:12 - Người đăng bài viết: admin
Chính phủ các nước và công chúng nói chung đang quan tâm hơn bao giờ hết đến chất lượng hoạt động của các trường trong tương quan so sánh với các trường khác hay nước khác, và đang nhận thức rõ hơn bao giờ hết về giá trị của GDĐH với tư cách là người tiêu thụ dịch vụ này. Cũng như nhãn hiệu xe hơi, túi xách, hay quần jeans, người tiêu dùng của GDĐH cũng đang tìm kiếm những dấu hiệu giúp họ có khả năng xác định và tiếp cận những trường ĐH tốt nhất.
Nhiều trường phải chật vật trong việc thu hút sinh viên quốc tế, những người phải trả tiền cho việc học Chất lượng hoạt động của hệ thống Chất lượng hoạt động của hệ thống có thể đo lường được bằng cách nhìn vào những kết quả chủ yếu mà nó đạt được. Phản ánh nhiều sứ mạng khác nhau của trường ĐH, bộ công cụ đối sánh nêu ra các kết quả sau: • Thành tựu xét về mặt tỉ lệ người được đào tạo trong dân số, đo bằng tỉ lệ người lớn trong độ tuổi đi làm có bằng cấp sau trung học. • Thành quả học tập hiểu theo nghĩa chất lượng đào tạo và ý nghĩa thiết yếu của những trải nghiệm trong nhà trường đối với người học khi họ bước vào đời. Đây là một trong những lĩnh vực khó đo lường nhất và vắng mặt trong những thước đo đang được chấp nhận rộng rãi như PISA hay TIMMS. • Sự bình đẳng hiểu theo nghĩa mức độ khác biệt trong kết quả (thành tựu đạt được và quỹ đạo học tập) của những nhóm học sinh có hoàn cảnh khó khăn (gia đình thu nhập thấp, học sinh nữ, dân tộc ít người, trẻ khuyết tật, v.v.) • Thành quả nghiên cứu khoa học hiểu theo nghĩa ấn phẩm khoa học và đào tạo bậc cao, đo lường qua số lượng trích dẫn của các tập san khoa học (tính tỉ lệ trên số dân) và năng lực của hệ thống trong việc đào tạo nghiên cứu sinh tiến sĩ. • Chuyển giao tri thức và công nghệ tiêu biểu cho những đóng góp của các trường ĐH cho sự phát triển của khu vực và địa phương. Một vài thước đo có thể kể là số lượng bằng sáng chế mà các trường ĐH đã đăng ký hoặc tỉ lệ tiến sĩ làm việc bên ngoài trường ĐH. • Các giá trị, cách xử sự, và thái độ hiểu theo nghĩa hiệu quả của nhà trường trong việc trang bị cho sinh viên những giá trị tích cực và kỹ năng công dân. Đây cũng là một lĩnh vực rất khó đo lường, nhưng những khó khăn về mặt phương pháp không thể là lý do biện minh cho sự thờ ơ với khía cạnh quan trọng này trong vai trò của giáo dục. Một số ví dụ về tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động của một hệ thống GDĐH có thể là:
Sự lành mạnh của hệ thống • Vai trò của lãnh đạo ở cấp quốc gia: sự hiện diện của một tầm nhìn và một kế hoạch chiến lược nhằm định hình tương lai của GD sau trung học và năng lực thực thi cải cách. • Cơ chế quản trị với khuôn khổ các chính sách, quy định: cơ chế và quy trình quản trị ở cấp quốc gia và cấp trường là điều xác định mức độ tự chủ mà các trường được hưởng, cũng như trách nhiệm giải trình của họ sẽ được thực hiện như thế nào và ở mức độ nào. Điều này đặc biệt quan trọng đối với chính sách nhân sự và thực tiễn quản lý, để các trường có thể thu hút và giữ được người tài.
Bộ khung phân tích này có thể diễn đạt thành những tiêu chí cụ thể trong đầu vào và quá trình để đo sự lành mạnh của hệ thống như sau:
Việc đối sánh các hệ thống GDĐH dựa trên ba loại tiêu chí: tiêu chí định lượng, tiêu chí định tính khách quan và tiêu chí định tính chủ quan.
Những tiêu chí định lượng đem lại cho chúng ta một thước đo hữu hình để so sánh chất lượng hoạt động thông qua nhiều khía cạnh khác nhau của các trường cũng như của hệ thống GDĐH các nước. Dữ liệu cho những tiêu chí này dễ thu thập hơn là dữ liệu định tính. Bởi vậy với nhóm tiêu chí này, bộ dữ liệu có ít lỗ hổng hơn. Ví dụ cho những tiêu chí này là: tỉ lệ người đạt được bằng cấp sau trung học trên dân số, hay tỉ lệ trích dẫn của các tập san khoa học trên 100.000 dân chẳng hạn.
Các tiêu chí sau đây dựa trên việc đo lường những khía cạnh khác nhau này:
Ghi chú: màu xanh lá: tỉ lệ người trưởng thành có bằng cấp sau trung học trong dân số; màu xanh dương: tỉ lệ người trưởng thành có bằng cấp trung học trong dân số; màu đỏ: tỉ lệ người trưởng thành có bằng cấp tiểu học trong dân số. Nguồn: Barro and Lee.
Hình 8 dưới đây có thể giúp giải thích vì sao Chile có tỉ lệ vào ĐH cao hơn. Như ta có thể thấy, số ứng viên có đủ tư cách vào ĐH-CĐ lớn hơn nhiều. Chile có 55% dân số có bằng trung học tính đến 2010, trong lúc con số này ở Brazil là 32%. Hình 8. Tỉ lệ người có bằng trung học trong dân số của Brazil và Chile, 2010
Enrolment rate: tỉ lệ sinh viên trong dân số ở độ tuổi ĐH Secondary schol completion rate: tỉ lệ tốt nghiệp trung học Hình 9 cho thấy mức độ đầu tư cho GDĐH của Chile so với Brazil. Kết quả của Chile là do Chile đã có thể huy động được một tỉ lệ lớn hơn nhiều nguồn vốn từ khu vực tư, thông qua cơ chế chia sẻ chi phí trong các trường công và qua sự mở rộng nhanh chóng khu vực tư trong GDĐH, trong lúc đó Brazil đã tiêu tốn ngân sách công nhiều hơn cho GDĐH. Nhìn chung, tổng nguồn đầu tư bao gồm cả công và tư cho GDĐH ở Chile là 1,8% GDP, trong lúc ở Brazil ít hơn một nửa, chỉ là 0,7% GDP. Figure 9. Tổng đầu tư cho GDĐH ở Brazil và Chile, 2007
Enrolment rate: tỉ lệ sinh viên trong dân số ở độ tuổi ĐH Public and private spending as percentage of GDP: nguồn chi từ ngân sách công và từ khu vực tư cho GDĐH tính tỉ lệ trên GDP. Hình 10 cho thấy tỉ lệ nhập học trong khu vực GDĐH tư ở Chile và Brazil gần ngang nhau. Mức trung bình nhập học ở bậc tiểu học thấp hơn các nước này tới 30% . Tỉ lệ học sinh tiểu học ở vùng Châu Mỹ Latin và Caribe thấp hơn những nước này rất đáng kể, ở mức 30%. Cả Brazil và Chile đều dùng tỉ lệ sinh viên nhập học trong khu vực tư một yếu tố quan trọng trong chiến lược mở rộng GDĐH của họ. Hình 10. Sinh viên nhập học trong khu vực GDĐH tư ở Brazil và Chile, 2007
Sự khác biệt về sứ mạng của các trường là một tiêu chí quan trọng đánh giá sức khỏe của hệ thống. Tiêu chí này đo lường số lượng sinh viên trong các trường sau trung học, nhưng không phải là đại học chẳng hạn như các trường cao đẳng cộng đồng, các cơ sở đào tạo mở và từ xa, v.v. Hình 11 cho thấy 11% người học ở bậc sau trung học của Chile hiện đang học trong những cơ sở không phải là ĐH như thế, trong lúc con số này ở Brazil là ít hơn 10%. Người ta có thể suy đoán rằng đó có thể là lý do khiến tỉ lệ người học sau trung học ở Chile cao hơn, vì Chile đem lại nhiều cơ hội đa dạng hơn cho người học, nhiều loại trường khác nhau sẵn có hơn là so với Brazil. Hình 11. Số lượng nhập học trong các cơ sở đào tạo sau trung học nhưng không phải là ĐH ở Brazil và Chile, 2007 Hình 12. Hỗ trợ tài chính cho sinh viên ở Brazil và Chile, 2007
Như ta có thể thấy qua trường hợp Brazil và Chile, đối sánh mang lại một nền tảng để đánh giá tác động và hiệu quả của những chính sách khác nhau. So sánh những tiêu chí giữa các nước khác nhau cho ta một thước đo nhạy cảm với thời gian để đo những tiến bộ hay suy thoái trong chất lượng hoạt động của một hệ thống. Những thông tin này có thể được dùng để xác định những lựa chọn chính sách, để làm cơ sở cho việc ra quyết định, và để hướng dẫn cho việc phân bổ nguồn lực. Kết luận Thế giới quan tâm đến xếp hạng trong từng bước đi của nó. Các nước đều đang được xếp hạng trên đủ mọi lĩnh vực, từ thành tích Olympic đến chất lượng sống. Không có gì đáng ngạc nhiên khi GDĐH trên thế giới ngày nay, với đặc điểm cạnh tranh toàn cầu ngày càng tăng để giành giảng viên và sinh viên giỏi, đã tạo ra ngày càng nhiều danh sách các trường hàng đầu trong những năm gần đây. Khoản đặt cược này khá là cao. Chính phủ các nước và công chúng nói chung đang quan tâm hơn bao giờ hết đến chất lượng hoạt động của các trường trong tương quan so sánh với các trường khác hay nước khác, và đang nhận thức rõ hơn bao giờ hết về giá trị của GDĐH với tư cách là người tiêu thụ dịch vụ này. Một số nước đang phấn đấu xây dựng những trường ĐH đẳng cấp quốc tế, được coi là mũi xung kích cho việc phát triển nền kinh tế tri thức. Những nước khác đang đối mặt với sự teo tóp số người học, thì chật vật thu hút sinh viên quốc tế, những người phải trả tiền cho việc học. Cũng như những thứ hàng hiếm, hàng hiệu, việc tiếp cận những thứ “đẳng cấp nhất” ngày càng tùy thuộc vào nhãn hiệu của nó. Cũng như nhãn hiệu xe hơi, túi xách, hay quần jeans, người tiêu dùng của GDĐH cũng đang tìm kiếm những dấu hiệu giúp họ có khả năng xác định và tiếp cận những trường ĐH tốt nhất. Cùng lúc đó, những bảng xếp hạng này không đủ để đo lường chất lượng thực sự của một nền GDĐH. Vượt ra ngoài kết quả của từng trường, điều quan trọng là làm sao có thể đánh giá được các hệ thống GDĐH đang đi xa đến đâu xét về mặt bình đẳng và cơ hội tiếp cận, về chất lượng và ý nghĩa đóng góp cho xã hội, về thành tích chuyển giao công nghệ, v.v. Những công cụ đối sánh mà Ngân hàng Thế giới đang trong quá trình xây dựng là nhằm thực hiện vai trò đó, bằng cách đưa ra một công cụ dựa trên web mà các nhà làm chính sách có thể dùng để so sánh giữa các nước với những tham số và tiêu chí mà họ cần. Tuy công cụ này không có ý kê toa chính sách cho các nước, nó hoàn toàn có thể mang lại một mảnh sân cho việc thực thi công việc chẩn bệnh và tìm kiếm những kịch bản khác nhau cho việc cải cách và phát triển GDĐH. Jamil Salmi Phạm Thị Ly dịch
Nguồn: Bản tin của Viện Đào tạo Quốc tế, ĐH Quốc gia TPHCM Tài liệu tham khảo Aghion, P., Dewatripont, M., Hoxby, C.M., Mas-Colell, A. and Sapir, A. 2009. The Governance and Performance of Research Universities: Evidence from Europe and the U.S. National Bureau of Economic Research (NBER) Working Paper 14851. Barro, R and Lee, J. 2010. Educational Attainment Dataset: www.barrolee.com Đọc thêm: Nếu xếp hạng là một căn bệnh, đối sánh có phải là thuốc chữa? (Kỳ 1) http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=113&CategoryID=6&News=8846 Nguồn tin: Tia Sáng
Từ khóa:
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
|
Thống kê truy cập Website
|
||||||
Ý kiến bạn đọc