Việt Nam sử dụng bao nhiêu tiền để có công bố quốc tế?
- Thứ hai - 30/05/2016 17:52
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Tổng số công bố quốc tế của Việt Nam trong
giai đoạn 2011-2015 gấp 2,2 lần so với giai đoạn
2006-2010
Tại phiên họp thứ 48 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội diễn ra sáng ngày 25/5/2016, Chủ nhiệm Ủy ban KH, CN và Môi trường của Quốc hội đã trình bày báo cáo kết quả giám sát bước đầu chuyên đề Hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển KH&CN nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai đoạn 2005-2015 và định hướng phát triển giai đoạn tới, trong đó chú trọng đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo.
Đánh giá việc thực hiện chiến lược phát triển KH&CN, Báo cáo do Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Trưởng đoàn giám sát trình bày cho biết, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 272/2003/QĐ-TTg ngày 31/12/2003 phê duyệt Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam đến năm 2010 và Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 phê duyệt Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020.
Qua 10 năm tổ chức triển khai thực hiện, một số chỉ tiêu quan trọng đề ra trong Chiến lược đã đạt được, như sau: Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đóng góp ngày càng nhiều vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) giai đoạn 2011-2013 với tỷ trọng đóng góp theo các năm lần lượt là 11,7%; 19,1% và 28,7%; tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị cơ bản đạt mục tiêu chiến lược đề ra, đạt 10,68%/năm. Tổng số bài báo, công trình khoa học được công bố quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015 gấp 2,2 lần so với giai đoạn 2006-2010, tốc độ tăng bình quân là 19,5%/năm, đạt mục tiêu của Chiến lược.
Số lượng công bố quốc tế từ các đề tài nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước tăng 15-20%/năm. Giai đoạn 2011-2015, số lượng sáng chế, giải pháp hữu ích được bảo hộ tăng 62% so với giai đoạn 2006-2010,…
Trước những con số được nêu ra trong báo cáo về bài báo, công trình khoa học được công bố quốc tế, bà Lê Thị Nga – Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đặt vấn đề: “Vì liên quan đến ngân sách nên đề nghị cho biết đã dùng bao nhiêu tiền để có số bài báo, công trình được công bố quốc tế?”.
Giải trình về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Quốc Khánh cho biết, trong thời gian vừa qua, số bài báo đăng ký công bố quốc tế tăng đáng kể nhờ sự hỗ trợ của Quỹ phát triển KH&CN quốc gia do Bộ KH&CN quản lý, hàng năm tăng 30%. Các bài báo công bố quốc tế này đăng trên tạp chí uy tín thuộc Danh mục tạp chí ISI do Thompson Reuter xếp hạng. Với các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, Quỹ phát triển KH&CN quốc gia tài trợ khoảng 800 triệu đồng, yêu cầu sản phẩm đầu ra bắt buộc là các công bố quốc tế đăng trên các tạp chí thuộc Danh mục tạp chí ISI.
Để làm rõ hơn thông tin về việc sử dụng bao nhiêu tiền để có số bài báo, công trình được công bố quốc tế, Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia cho biết cụ thể hơn: Đây là Chương trình tài trợ nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên triển khai từ năm 2009, trong đó bao gồm 8 lĩnh vực: Toán học, Khoa học Thông tin và Máy tính, Vật lý, Hóa học, Khoa học Trái đất và Môi trường, Khoa học Sự sống – Sinh học Nông nghiệp, Y sinh và Cơ học. Các đề tài nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên được Quỹ tài trợ hàng năm khoảng hơn 200 đề tài nghiên cứu, chiếm 80% số lượng đề tài, chương trình được Quỹ tài trợ và khoảng 60% tổng kinh phí tài trợ của Quỹ. Kinh phí trung bình Quỹ tài trợ cho các đề tài, các chương trình này là 750-800 triệu đồng/1 đề tài, chương trình nghiên cứu, ứng dụng KH&CN. Ngoài sản phẩm nghiên cứu chính, các đề tài, các chương trình nghiên cứu, ứng dụng KH&CN do Quỹ tài trợ bắt buộc phải có tối thiểu 2 công bố quốc tế đăng trên các tạp chí thuộc Danh mục tạp chí ISI do Thompson Reuter xếp hạng (không kể các công bố trong và ngoài nước khác trên các tạp chí không thuộc Danh mục tạp chí ISI).
Theo số liệu thống kê về kết quả nghiệm thu năm 2015, số lượng các bài báo thuộc Danh mục tạp chí ISI được công nhận là kết quả của đề tài nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên do Quỹ tài trợ đạt 2,9 bài báo/đề tài.
Nguồn: Bộ KH&CN