S4VN hướng tới góp phần minh bạch hóa môi trường học thuật
- Thứ năm - 09/06/2016 22:30
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Tạp chí Trắc lượng khoa học
(Scientometrics)
Nhóm có thể cho biết động lực và quá trình xây dựng dự án Trắc lượng khoa học Việt Nam?
Trong khoa học, để có những đánh giá đúng đắn về chất lượng các nghiên cứu mà không bị chi phối bởi các quan điểm thiên kiến, người ta cần tới các dữ liệu trắc lượng khoa học (scientometrics) và phản biện đồng nghiệp (peer review). Vì vậy, ngay từ năm 2014, khi cùng học tại Đài Loan, nhóm chúng tôi đã thảo luận về các thống kê trắc lượng khoa học của Việt Nam, đặc biệt là thành quả nghiên cứu của các trường đại học. Cho đến năm 2015, một số dữ liệu trắc lượng khoa học đã được nhóm lần đầu tiên thu thập và công bố chi tiết khi phản biện một kết quả đo lường trong đánh giá thành quả khoa học ở Việt Nam. Các dữ liệu đó được nhiều nhà khoa học đánh giá cao và phản hồi ý kiến tích cực. Qua đấy, chúng tôi nhận thấy thông tin về dữ liệu trắc lượng khoa học thực sự là một nhu cầu cần thiết đối với các nhà khoa học và các cơ quan quản lý. S4VN (viết tắt của Scientometrics for Vietnam) ra đời ngày 26/10/2015 nhằm góp phần đáp ứng những nhu cầu ấy.
Những dữ liệu nào được S4VN thống kê và hiện nay đã làm được đến đâu?
Các chỉ số chính về trắc lượng khoa học được nhóm S4VN thống kê và công bố gồm: tổng số bài báo ISI, tổng số trích dẫn, chỉ số H đối với từng phân ngành (theo phân loại của Web of Science, Thomson Reuters), các chỉ số phản ánh tác động khoa học và năng suất nghiên cứu như tổng số lượt trích dẫn (không kể tự trích dẫn), chỉ số H nội lực. Đến nay, nhóm đã tóm tắt các nghiên cứu trên thế giới về các chỉ số trong trắc lượng khoa học; thống kê thông tin trắc lượng khoa học của 15 cơ sở giáo dục đại học trong nước có thành tích công bố tốt nhất; so sánh công bố ISI của Việt Nam với các nước trong ASEAN; mô tả việc sử dụng ISI trong hoạt động KHCN ở Việt Nam1.
Trên thế giới, bộ môn trắc lượng khoa học ra đời từ 1960 với một số dấu mốc như: sự ra đời của Viện Thông tin khoa học (Institute of Scientific Information) năm 1960, tạp chí Trắc lượng khoa học (Scientometrics) năm 1978 và đã có những đóng góp không nhỏ tới việc đánh giá các công bố khoa học. Hầu hết các cơ quan chuyên môn về quản lý khoa học như Quỹ Khoa học quốc gia Mỹ (NSF), Academia Sinica (Đài Loan) các tổ chức liên quốc gia như World Bank, United Nation đều có bộ phận chuyên trách về trắc lượng khoa học. Ở Việt Nam, vài năm gần đây, nhiều nhà khoa học được đào tạo ở nước ngoài đã khá quen thuộc với các khái niệm về trắc lượng khoa học, một số văn bản về quản lý khoa học đã nhắc tới các chuẩn mực khoa học quốc tế như ISI, Scopus… nhưng những thông tin bài bản về bộ môn này vẫn còn rất thiếu. |
Qua việc thống kê, so sánh kết quả trắc lượng khoa học trong nước với khu vực và thế giới, khoa học Việt Nam đang đứng ở đâu so với khu vực và quốc tế?
Dữ liệu thống kê của S4VN (tính đến ngày 02/01/2016) đã cho thấy số lượng công bố và mức độ tác động khoa học của Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể. Cụ thể, nếu trước đây, Việt Nam có số lượng công bố ISI xếp thứ 62 (năm 2010) thì nay đã vươn lên thứ 55 (năm 2015). Việt Nam cũng có thế mạnh trong một số phân ngành, ví dụ: đang xếp thứ ba khối ASEAN về công bố quốc tế ở các phân ngành Động thực vật học, Miễn dịch học và dẫn đầu ASEAN về các công bố ISI của ngành Toán học (tổng số công bố của ngành toán Việt Nam xếp vị trí 37 toàn cầu và hơn Singapore sáu bậc). Tuy nhiên, tính tổng số công bố quốc tế, Việt Nam vẫn xếp sau Singapore, Malaysia và Thái Lan.
Xếp hạng thế giới công bố ISI giữa Việt Nam và các nước ASEAN theo phân ngành toán học
Những dự định trong thời gian tới của nhóm S4VN là gì?
S4VN sẽ từng bước mở rộng thống kê các chỉ số trắc lượng khoa học hữu ích, nhằm hỗ trợ cho tiến trình hoạch định của các nhà hoạch định chính sách cũng như tôn vinh các nhà khoa học có nhiều đóng góp cho sự phát triển của khoa học Việt Nam.
Những khó khăn mà nhóm gặp phải khi tiến hành dự án này?
Tất nhiên có khó khăn vì S4VN hoạt động không có nguồn tài trợ và vẫn phải hoàn thành nhiều công việc khác nhưng chúng tôi không muốn nói quá nhiều về khó khăn của mình. S4VN quan tâm nhiều hơn đến khó khăn chung của cả nền khoa học và giáo dục đại học Việt Nam. Cụ thể, S4VN thấy rằng, các nhà khoa học Việt Nam vẫn thiếu một môi trường làm việc phù hợp và nguồn hỗ trợ tài chính tương xứng để hoàn toàn tập trung cho nghiên cứu khoa học; còn khó khăn lớn nhất với các nhà hoạch định chính sách là thiếu thông tin tin cậy về trắc lượng khoa học.
Nhóm S4VN cần những điều kiện gì để làm tốt hơn cho dự án trắc lượng khoa học này?
Sự chung tay minh bạch hóa các dữ liệu thống kê liên quan đến đánh giá thành tích khoa học từ các cấp sẽ là sự hỗ trợ lớn nhất đối với dự án của S4VN.
Xin cảm ơn những chia sẻ của nhóm.
Thu Quỳnh thực hiện
Ý kiến đánh giá của một số nhà khoa học về dự án S4VN |
Chú thích:
1. Các thống kê, mô tả này của nhóm S4VN đã được nhiều cơ sở khoa học, nhà khoa học uy tín trích dẫn lại (Tia Sáng).