Thoát ra từ Vũ Hán – covid có nguồn gốc tự nhiên hay nhân tạo?
- Thứ hai - 07/06/2021 18:28
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Cảnh báo Trung Quốc
Vào cuối tháng 12/2019, dịch viêm phổi không điển hình bùng phát tại thành phố Vũ Hán, thủ phủ 15 triệu dân của tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Nhanh chóng, nó được xác định là coronavirus, hay chính xác hơn là beta coronavirus. Hay chính xác hơn nữa là sarbecovirus – loại beta coronavirus gây ra bệnh giống như SARS (Hội chứng suy hô hấp cấp nghiêm trọng).
Hai loại beta coronavirus mà con người biết đến là OC43 và HKU1. Chúng gây ra (ngoài những bệnh khác) cảm lạnh thông thường. Ngoài ra, SARS-CoV và MERS-CoV cũng là beta coronavirus, chúng đã lây sang con người cách đây không lâu, lần lượt vào năm 2002 và 2012.
Vào ngày 30/12, Viện Vi rút học Vũ Hán (WIV) đã nhận được mẫu vi rút mới. Thật là trùng hợp may mắn khi những mẫu thử này đã đến đúng nơi: WIV là trung tâm nghiên cứu coronavirus lớn nhất Trung Quốc, và cơ sở dữ liệu về coronavirus của nó là lớn nhất thế giới. Vào đúng ngày viện nhận được mẫu virus mới, cơ sở dữ liệu điện tử này đột ngột bị đổi tên, và sau đó (hoặc gần như ngay lập tức) bị xóa khỏi quyền truy cập. Khi cố gắng tải xuống, người ta chỉ nhận được một file trống.
WIV sở hữu những thiết bị hạng nhất, cho phép giải mã bộ gen coronavirus trong thời gian tối đa hai ngày. Tuy nhiên, viện đã không vội. Bộ gen của virus mới chỉ được công bố vào ngày 10/1, và không phải bởi Viện Vũ Hán, mà bởi Trung tâm Lâm sàng Y tế Công cộng Thượng Hải.
Hai ngày sau công bố này, ngày 12/1, Trung tâm Thượng Hải đã đóng cửa, và Vũ Hán cũng công bố giải mã bộ gen của virus và chính thức chuyển giao cho Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
Các nhà virus học thường đặt tên cho các loại virus mới theo nơi xuất xứ của chúng. Vì thế mà có virus Zika, sốt Tây sông Nile, virus Marburg, Ebola, v.v. Bằng cách tương tự, có thể dễ dàng cho rằng loại virus mới sẽ được gọi là Vũ hán. Tuy nhiên, vào giữa tháng 2/2020, WHO đã đặt tên cho loại virus này theo cách khác. Họ gọi nó là SARS-CoV2 – một cái tên phức tạp gợi ý mối quan hệ của nó với SARS-CoV1 trước đây, và bản thân căn bệnh được gọi là COVID-19. Những cái tên “virus Vũ Hán” hay thậm chí là “kung flu”, gây bất bình cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhanh chóng bị tuyên bố là phân biệt chủng tộc và bị rút không sử dụng. Trong một thời gian, Tổng thống Trump vẫn sử dụng chúng, và sau đó mọi người bắt đầu gọi là “covid”, và ở Nga – còn là “corona”.
Ngay từ đầu, Trung Quốc, WHO và các nhà virus học lớn nhất thế giới đã tuyên bố rằng dịch bệnh có nguồn gốc tự nhiên. Những lời giải thích của họ đề cập đến một loại virus trong con dơi. Sau đó, nó đã chuyển sang một loại động vật nào đó (người ta nói là tê tê), và từ động vật này sang người. Chuyện xảy ra tại một khu chợ tươi ở thành phố Vũ Hán, Trung Quốc. Người Trung Quốc mà – có Chúa mới biết họ ăn những thứ gì …
Giải thích này tỏ ra hoàn toàn hợp lý. Đây chính là cách mà, ví dụ, SARS-CoV nói trên đã được truyền sang người vào năm 2002, và điều này cũng đã xảy ra ở Trung Quốc. Khi đó, virus từ dơi nhảy sang cầy hương, cầy hương được bán ở chợ tươi, và mọi chuyện bắt đầu.
Điều tương tự cũng xảy ra với một loại coronavirus khác, MERS, vào năm 2012 ở Ả Rập Xê Út, chỉ khác là MERS chuyển từ dơi sang lạc đà.
Nhưng cả MERS và SARS đều không dẫn đến đại dịch toàn cầu – chúng lây truyền từ người sang người rất kém. Ví dụ, protein gai (spike protein) SARS1 liên kết với thụ thể (receptor) ACE2 ở người kém hơn 10–20 lần so với SARS2 “covid”.
Tỷ lệ tử vong đối với cả hai loại virus đều rất cao. Ở MERS, tỷ lệ này lên tới 30%, ở SARS – khoảng 10%, và những người trên 60 tuổi bị nghiêm trọng hơn nhiều. Trong nhóm này, tỷ lệ tử vong là 50%. Người ta bắt đầu sản xuất vắc-xin chống MERS, bởi vì Ả Rập Xê-út là một quốc gia giàu có, người ta không tiêm vắc-xin chống SARS vì vi-rút đã biến mất: như đã đề cập, nó không được tối ưu hóa để gắn vào các thụ thể của con người.
SARS-CoV1 và SARS-CoV2, nguyên nhân gây bệnh covid, giống nhau đến 80%, không phải là nhiều đối với virus (chúng tiến hóa rất nhanh), nhưng các nhà khoa học đã nhanh chóng tìm thấy một họ hàng gần hơn nhiều với SARS2. Vào ngày 3/2/2020, tiến sĩ Shi Zhenli (Thạch Chính Lệ – ND) thuộc WIV và các đồng nghiệp của bà đã đăng một bài báo trên tạp chí Nature, nói rằng một loại virus được tìm thấy trong tủ đông của Viện giống 96,2% với vi-rút SARS-CoV-2.
Loại virus này được tiến sĩ Thạch và các đồng nghiệp của bà chiết xuất cách Vũ Hán 1.500 km trong các hang động ở tỉnh Vân Nam, vào năm 2013. Đó là virus dơi móng ngựa Rhinolophus Affinis.
Hang động được gọi là Tongguan (Đồng Quán? – ND), và virus được đặt tên là RaTG13. Bộ gen của RaTG13 và SARS2 khác nhau 3,8%, đây là một sự khác biệt khá lớn. Trong thế giới tự nhiên, điều này có nghĩa là hai loại virus có tổ tiên chung cuối cùng cách đây 20-50 năm.
Tiến sĩ virus học Peter Daszak giải thích với nhà báo khoa học nổi tiếng Donald McNeill rằng không có gì ngạc nhiên khi Viện Vũ Hán tìm thấy RaTG13 nhanh như vậy. Hàng trăm loại virus được lưu trữ trong tủ đông của Viện, nhiều virus – bao gồm cả RaTG13 – thậm chí không được giải trình tự (sequence) đầy đủ. Thay vào đó, họ chỉ có một gen được giải trình tự, RdRP, hiếm khi thay đổi và đóng vai trò như một dấu trang (bookmark) trong các ngân hàng gen. Sau khi có dịch, các nhà khoa học bắt đầu tìm kiếm dưới đáy thùng, thấy rằng RdRP RaTG13 tương tự như SARS-CoV-2, đã rã đông nó và giải trình tự cho đến cùng.
Tiến sĩ Daszak biết mình đang nói gì.
Nhà virus học, TS. Peter Daszak
Ngoài vô số danh hiệu của mình, ông còn là chủ tịch của EcoHealth Alliance – một tổ chức phi chính phủ, chủ yếu quan tâm đến các dịch bệnh mới tiềm tàng, đe dọa nhân loại do cuộc tấn công tàn phá của con người đối với tự nhiên và làm suy giảm môi trường sống tự nhiên. Theo Tiến sĩ Daszak, một trong những khu vực rủi ro chính là Trung Quốc, quốc gia đang phá hủy môi trường một cách nhanh chóng, và một trong những chủ đề nan giải nhất là coronavirus dơi.
Tiến sĩ Daszak đã nhiều lần cảnh báo về khả năng đại dịch bùng phát theo một kịch bản như vậy. Để ngăn chặn điều này, EcoHealth Alliance đã nhận được 3.748.715 đô la từ NIH (Viện Y tế Quốc gia, Mỹ) từ năm 2014 đến 2019.
Dự án của Tiến sĩ Daszak là để “tìm hiểu nguy cơ xảy ra đại dịch coronavirus dơi” ở Trung Quốc.
Một trong những tuyên bố của tổ chức này cho biết “CoVs mới có nguồn gốc từ động vật hoang dã, bắt nguồn từ dơi là một nguy cơ đáng kể … Chúng tôi đã phát hiện ra rằng loài dơi ở miền nam Trung Quốc có nhiều loại SARSr-CoV khác thường. Một số chúng sử dụng các thụ thể ACE2 của người để xâm nhập vào tế bào và lây nhiễm sang những con chuột đã được nhân hóa, gây ra một căn bệnh tương tự như SARS… Những người sống gần môi trường sống của dơi là nhóm nguy cơ chính ”.
Một trong những đồng nghiệp của Tiến sĩ Dasek là Tiến sĩ Thạch, một nhà virus học cấp cao nhất, người đã lãnh đạo nghiên cứu về các coronavirus dơi tại WIV, và do đó được đặt biệt danh là “Người phụ nữ dơi”. Chính WIV đã thực hiện phần lớn công việc thực địa. Chính là các nhà nghiên cứu của Viện đã chui luồn trong các hang động Vân Nam, lấy mẫu vi rút từ phân dơi ở đó.
Đó là một trường hợp đáng kinh ngạc về tiên đoán khoa học. Tiến sĩ Daszak đã cảnh báo. Đã nài nỉ. Đã chỉ ra. Ông đã thông báo rằng coronavirus từ những con dơi sống ở Trung Quốc có thể gây ra dịch bệnh chưa từng có do chúng có ái tính với các thụ thể ACE2 của con người.
Và chúng đã gây ra một trận dịch.
“Dự án này nhằm tìm hiểu những yếu tố nào cho phép coronavirus động vật tiến hóa và nhảy vào quần thể người bằng cách kiểm tra sự đa dạng của virus trong một nhóm động vật quan trọng (dơi) và các địa điểm có nguy cơ cao (chợ bán động vật hoang dã) tại một điểm nóng về dịch bệnh (Trung Quốc).” – Tiến sĩ Dasek đã viết.
Thật kinh ngạc. Tiến sĩ Daszak đã cảnh báo: coronavirus, dơi, chợ, Trung Quốc. Và xảy ra đúng như vậy – coronavirus, dơi, chợ, Trung Quốc.
“Thuyết âm mưu vớ vẩn”
Không ngạc nhiên khi trong điều kiện như vậy, giả thuyết về nguồn gốc nhân tạo của virus đã bị chế giễu một cách không thương tiếc.
Vào tháng 2/2020, một bài báo xuất hiện trên virological.org, có chữ ký của một số nhà virus học hàng đầu thế giới. Nó được gọi là “Nguồn gốc gần của SARS-CoV-2”, và tác giả chính của nó là Christian Andersen của Viện Scripps. “Chúng tôi không tin vào tính hợp lý của bất kỳ kịch bản phòng thí nghiệm nào,” các tác giả tuyên bố. Bài báo đã sớm được in lại trên tạp chí Nature.
Vài ngày sau, vào ngày 19/2/2020, một tuyên bố thậm chí còn quyết đoán hơn đã xuất hiện trên tờ Lancet. Các nhà khoa học viết: “Trong sự đoàn kết, chúng tôi cực lực lên án các thuyết âm mưu cho rằng COVID-19 xuất hiện một cách phi tự nhiên. Chúng tôi muốn các bạn, các chuyên gia khoa học và y tế ở Trung Quốc, biết rằng chúng tôi đồng hành cùng các bạn trong cuộc chiến chống lại virus”
Những người ký tên đã đoàn kết với các đồng nghiệp Trung Quốc đến mức một bản dịch tiếng Trung đã được đính kèm vào văn bản của bức thư. Nhìn chung, những bức thư tập thể theo kiểu lên án gay gắt, hay ủng hộ về mọi mặt và thể hiện sự đoàn kết sâu sắc không phải là cách làm khoa học tốt. Đặc biệt khi sự đoàn kết đó được thể hiện với chính Trung Quốc, là quốc gia mà các nhà chức trách vừa yêu cầu quyền xem xét tất cả các bài báo khoa học về virus trước khi nó được phép công bố.
Kết quả là, một “sự đồng thuận khoa học” nhanh chóng được hình thành, mạnh mẽ như trong trường hợp trái đất nóng lên. Cụ thể: virus ở Vũ Hán xuất hiện một cách tự nhiên, nó nhảy từ dơi sang vật mang mầm bệnh trung gian hoặc trực tiếp sang người, như Tiến sĩ Daszak đã cảnh báo về nó. Bất kỳ ai nghĩ khác đều là một kẻ theo thuyết âm mưu, Qanon hay thuyết cấy chip.
Khi đề cập đến nguồn gốc nhân tạo của virus, các tiêu đề trên các phương tiện truyền thông đại chúng của Mỹ bắt đầu giống với các bài xã luận của báo Pravda khi đập tan luận điệu của những kẻ theo chủ nghĩa di truyền học Weismann-Morgan. “Những kẻ cực hữu tiếp tục nhấn mạnh vào những huyền thoại xuyên tạc về nguồn gốc COVID-19”, tờ Washington Post viết. “Thượng nghị sĩ Tom Cotton nhắc lại một thuyết ngoài lề về nguồn gốc của coronavirus và thúc đẩy một thuyết âm mưu đã bị các nhà khoa học chân chính chế giễu”, New York Times cho biết. “Đỉnh cao của sự vô trách nhiệm đối với một người của công chúng”, CNN phẫn nộ. Những người kiểm tra sự thật (fact checker) gọi thuyết rò rỉ trong phòng thí nghiệm là “bôi nhọ” và “vu khống”, các tạp chí khoa học từ chối in các bài báo của những người nghi ngờ, Facebook hủy bỏ các post về nó, tự đảm nhận vai trò trọng tài tối cao trong một tranh chấp khoa học. Và một độc giả để ý có thể nhận thấy, có một sự trùng hợp kỳ lạ là tất cả những ai dám cho rằng virus đã trốn thoát khỏi phòng thí nghiệm, vì một lý do nào đó, trong mô tả của các phương tiện truyền thông, đều biến thành một người tuyên bố rằng virus là vũ khí sinh học của Trung Quốc, mà điều này, như bạn thấy, là một sự khác biệt lớn. Chỉ thiếu nước là có người bị trách nhiệm hình sự vì phủ nhận nguồn gốc tự nhiên của covid.
Tóm lại: giả thuyết virus thoát ra khỏi phòng thí nghiệm chỉ được nêu bởi những kẻ ngu dốt, những người theo thuyết âm mưu và Tổng thống Trump.
Tất cả đã kết thúc vào tháng 11/2020 – người theo thuyết âm mưu Trump đã thất bại trong cuộc bầu cử một cách thảm hại. Một tổng thống mới đã đến Nhà Trắng. Ông ta nghe báo cáo của nhóm do Trump lập ra với mục đích chứng minh thuyết nhảm nhí phản khoa học của mình, và ngay lập tức giải thể nó.
Một phái bộ của WHO đã đến Trung Quốc – và trùng hợp một cách đáng mừng, gần như đồng thời với lễ nhậm chức của tân tổng thống Hoa Kỳ. Đoàn công tác đã đến các bệnh viện, chợ, Viện Virus Vũ Hán và Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Vũ Hán gần đó, nơi các nhà khoa học cũng đã nghiên cứu coronavirus, và nằm cách chợ tươi vài trăm mét.
Sau một tháng nghiên cứu, đoàn đã bác bỏ kịch bản rò rỉ, cho là không thể xảy ra. Thành viên người Mỹ duy nhất của ủy ban chính là Tiến sĩ Peter Daszak, chuyên gia về coronavirus, dơi, chợ, Trung Quốc và các dịch bệnh động vật phát sinh từ việc con người tàn phá môi trường sống tự nhiên.
Vật trung gian ở đâu?
Thật đáng ngạc nhiên, nhưng chính sau hoạt động của phái đoàn WHO, “sự đồng thuận khoa học” về giả thuyết về nguồn gốc tự nhiên của virus bắt đầu gặp vấn đề lớn.
Đầu tiên, hóa ra phái đoàn của WHO không tham gia vào bất kỳ nghiên cứu nào, ngồi cách ly trong hai tuần, và tất cả chỉ tập trung vào một chuyến tham quan PR dành cho khách với các câu trả lời thuộc lòng cho các câu hỏi. Viện đã không cho phép phái đoàn truy cập không chỉ các nhật ký trong phòng thí nghiệm của mình, mà ngay cả cơ sở dữ liệu đã từng mở cho truy cập công cộng, và đã đột ngột biến mất vào khoảng ngày 30/12. Thay vào đó, Viện đã đảm bảo với phái đoàn: Thề có mẹ chúng tôi, không hề có rò rỉ! Và các nhà khoa học nhân hậu của WHO đã quyết định rằng, đây là một lời giải thích khoa học thuyết phục.
Điều này đã gây ra một cú sốc. Nhà virus học nổi tiếng người Mỹ Konstantin Chumakov, con trai của Mikhail Chumakov, người đã tiêm chủng bại liệt cho toàn bộ Liên Xô nhận xét: “Ngay cả những người đến Trung Quốc cốt để bào chữa cho họ (mà phái đoàn đúng là định làm thế thật), họ cũng chẳng cho đi đâu hết”
Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải thứ tệ nhất.
Rắc rối chính là, sau báo cáo của phái đoàn WHO, một điều đã trở nên rõ ràng: trong năm qua, cả các nhà động vật học Trung Quốc, các nhà virus học, an ninh quốc gia, và rốt cuộc là phái đoàn WHO, đã không thể tìm thấy động vật trung gian giả định mà virus đã nhảy sang từ dơi.
Phái bộ của WHO cũng phải tuyên bố rằng chợ Vũ Hán không phải là nơi bắt nguồn của virus. Nhiều bệnh nhân ban đầu không liên quan gì đến chợ này. Và tất cả các mẫu SARS2 thu thập trên thị trường đều là SARS2 của người, không có bất kỳ dấu vết nào của động vật.
Thật quái lạ.
Ví dụ, trong trận dịch SARS đầu tiên, người ta đã chứng minh được trong vòng bốn tháng rằng vật mang mầm bệnh trung gian là cầy hương, mặc dù Trung Quốc khi đó kém chuẩn bị hơn cho những vụ dịch như vậy (ví dụ, việc giải trình tự SARS đã mất nhiều thời gian). Thật ra, chính là sau khi dịch SARS đầu tiên bùng phát ở Trung Quốc, họ mới phát triển nhanh chóng ngành virus học. Đảng Cộng sản không hài lòng với sự chậm chạp và bất lực của phản ứng với SARS, và quyết định sẽ đón tiếp dịch bệnh tiếp theo với vũ khí sẵn sàng. (Còn con lạc đà gây ra MERS thì được xác định ra sau 9 tháng).
Kịch bản mà Trung Quốc công bố vào tháng 1/2020 – coronavirus dơi nhảy sang một động vật trung gian nào đó (được cho là tê tê), và tê tê được bán ở chợ Vũ Hán – hóa ra là sai. Không tìm thấy động vật trung gian nào dù là tê tê hay lửng, và bản thân virus thì không khởi phát ở chợ.
Có thể bạn sẽ nói rằng, có gì to tát đâu. Có thể, virus đã ngay lập tức nhảy từ dơi sang người.
Chỉ có điều, giả thuyết này có một số nhược điểm, bắt đầu từ thực tế là dơi không bị nhiễm SARS2.
“Nếu SARS2 nhiễm từ dơi sang người chỉ trong một cú nhảy và không thay đổi nhiều kể từ đó, nó vẫn sẽ lây nhiễm cho dơi. Nhưng thực tế không phải, “- nhà báo khoa học Nicholas Wade đã viết trong bài báo của mình, mà sau khi nó được công bố, người ta rốt cuộc cũng bắt đầu nói về vụ rò rỉ phòng thí nghiệm. Bài báo này đã phá vỡ sự im lặng của các thiết chế (establishment), và chúng tôi sẽ dẫn các lập luận từ đó thường xuyên và nhiều trong bài này. Mặc dù thực tế là Wade đã làm việc cho Nature, Science và The New York Times, nhưng anh đã phải đăng bài báo của mình trên một ấn phẩm ít nổi tiếng hơn nhiều – Bản tin của các nhà khoa học nguyên tử (The Bulletin of the Atomic Scientists).
Bài báo của Wade, đến lượt mình, dựa trên một số công trình, đầu tiên là bài báo xuất sắc của Yuri Deigin, một doanh nhân Canada gốc Nga có công ty khởi nghiệp Youthereum Genetics về liệu pháp gen. Deigin sau đó đã được nhà vi sinh vật người Ý Rossana Segreto liên hệ, và họ cùng nhau viết một trong những bài báo đầu tiên để đăng trên các tạp chí được bình duyệt, về khả năng rò rỉ trong phòng thí nghiệm.
Chẳng bao lâu sau, Deigin và Segreto hợp tác với một nhóm rộng rãi những người cùng chí hướng, tạo ra một nhóm kín trên Internet tên là DRASTIC. Những người nhiệt thành của DRASTIC (trong số đó có Trung Quốc, Úc, Ấn Độ – các nhà sinh học phân tử, tin sinh học, v.v.) bắt đầu dần dần, từng chút một, tái hiện lại những gì đã xảy ra ở Vũ Hán (giống như Bellingcat đã dựng lại những gì đã xảy ra với chuyến bay MH17).
Kết quả thế này, quay lại với dơi và covid, các nhà khoa học đã thử nghiệm 37 loài dơi: S-protein của SARS2 liên kết rất kém với các thụ thể ACE2 ở 8 trong số chúng, và rất kém – ở 29 loài còn lại. Trong tất cả các loài động vật được thử nghiệm, S-protein của coronavirus tiếp xúc tốt nhất với ACE2 của con người. Nó đã được tối ưu hóa cho ACE2 của con người.
Ngoài nhược điểm không thể bác bỏ qua này, giả thuyết cho rằng virus đã nhảy từ dơi sang người còn có một số nhược điểm khác. Ví dụ, trận dịch bùng phát tại một khu chợ ở Vũ Hán, còn nơi phát hiện ra họ hàng gần nhất của SARS2 cách đó 1500 km – ở Vân Nam. Nếu ai đó mắc bệnh SARS2 trong một hang động ở Vân Nam, thì không rõ bằng cách nào mà anh ta đã đi được 1.500 km này mà không lây bệnh ra xung quanh. Và những con dơi vào thời điểm của lần lây nhiễm đầu tiên – vào tháng 9-10 – lẽ ra đã ngủ đông rồi.
Bạn có thể phản bác rằng không phải tất cả các loại virus của dơi đều đã được nghiên cứu, và có khả năng là một số loại virus sống gần hơn. Đây là một phản đối hợp lý. Tuy nhiên, Rhinolophus Affinis, loài dơi mà RaTG13 được phát hiện, hoàn toàn không được tìm thấy ở tỉnh Hồ Bắc. Các coronavirus của loài dơi sống ở Hồ Bắc đã được nghiên cứu trên diện rộng kể từ khi bắt đầu đại dịch, và chúng đều khác xa SARS2, hơn nhiều so với RaTG13. Trong mọi trường hợp, những con dơi này không được tìm thấy trong thành phố – phải di chuyển hàng chục km đến môi trường sống gần nhất.
Như vậy, một năm rưỡi đã trôi qua, và đã trở nên rõ ràng là giả thuyết đầu tiên của sự lây lan của virus không đúng với thực tế.
Động vật trung gian không có. Dơi không được bán ở chợ Vũ Hán. Bản thân chợ không phải là nơi phát sinh virus – chỉ là nơi mà nó nhân lên do những điều kiện lý tưởng. Và họ hàng gần nhất được mô tả của SARS2 nằm cách thành phố 1500 km trong những con dơi, mà vào thời điểm lây nhiễm lần đầu tiên đã rơi vào trạng thái ngủ đông.
Vậy có nơi nào khác mà virus có thể bắt nguồn ở Vũ Hán không?
Câu trả lời là có. Đó là Viện Virus Vũ Hán, có chuyên môn về thao túng gen của coronavirus và sở hữu bộ sưu tập lớn nhất về chúng không chỉ ở Trung Quốc mà trên toàn thế giới.
TS. Thạch (bên trái) trong phòng thí nghiệm của WIV
RaTG13 có trong bộ sưu tập này. Hơn nữa, DRASTIC đã chứng minh rằng virus hoàn toàn không nằm trong tủ đông của viện, như Tiến sĩ Daszak và Tiến sĩ Thạch đã tuyên bố. Nó được Tiến sĩ Thạch mô tả vào năm 2016, chỉ có trong bài báo này nó được gọi là RaBtCoV/4991. Một thành viên DRASTIC đã khai quật hai luận án của Trung Quốc nói rằng virus này được thu hoạch sau khi sáu thợ mỏ địa phương khai thác phân dơi trong hang động và mắc bệnh với các triệu chứng COVID-19 vào tháng 4/2012. Ba người trong số họ đã chết. Tổng cộng, Tiến sĩ Thạch và các đồng nghiệp đã thu thập được 8 loại virus trong các hang động này, trong đó chỉ có một loại được công bố cho đến nay.
Nếu hình dung rằng virus của chúng ta là hậu duệ của RaTG13, thì một số câu hỏi không thể trả lời trong khuôn khổ giả thuyết về nguồn gốc tự nhiên có thể được giải quyết một cách dễ dàng và đơn giản.
Phương tiện vận chuyển RaTG13 từ các hang động Vân Nam đến Vũ Hán là các nhà virus học đã tham gia lấy mẫu. Và những động vật trung gian để virus tiến hóa là tế bào người được nuôi cấy và chuột trong phòng thí nghiệm được nhân hóa, tức là những con chuột có đoạn DNA được chèn vào phổi, nhờ đó những con chuột này có được các thụ thể ACE2 của con người.
Tuyên bố của Tiến sĩ Daszak có lý khi chỉ ra rằng, những người đầu tiên bị bệnh do coronavirus mới phải là “những người sống gần nơi cư trú của dơi.” Trong trường hợp này, như ta thấy, những người đầu tiên bị ốm không phải là những người sống gần hang động ở Vân Nam. Những người đầu tiên mắc bệnh là những người sống gần WIV. Hơn nữa, có sự trùng hợp đáng ngạc nhiên như Tiến sĩ Stephen Kay chỉ ra, rằng những trường hợp nhập viện đầu tiên chủ yếu là dọc theo tuyến tàu điện ngầm nối Viện Vũ Hán với sân bay quốc tế.
Tiến sĩ Daszak
Như đã nói trên, Viện Vũ Hán đi đầu trong cuộc chiến chống lại sự lây lan có thể của coronavirus dơi trong quần thể người, do nạn khai thác tài nguyên thiên nhiên vô độ và mất môi trường sống.
Vậy các nhà khoa học đã chiến đấu bằng những phương tiện nào?
Chúng tôi có câu trả lời cho câu hỏi này. Nó có trong rất nhiều đơn của Tiến sĩ Daszak, trên cơ sở đó ông ta nhận được khoảng 600 nghìn đô la hàng năm từ NIH. Một phần tiền đã được chuyển cho Viện Vũ Hán, trong trường hợp này là liên quan đến EcoAlliance với tư cách là một nhà gia công Trung Quốc giá rẻ trong mối quan hệ với khách hàng phương Tây. EcoAlliance đã nhận được tất cả tiền (chính xác là 90%), còn người Trung Quốc đã cày.
Một trong những đơn cho biết: “Các mô hình về khả năng gây dịch sẽ được thử nghiệm bằng cách sử dụng di truyền ngược, vi khuẩn giả, thí nghiệm liên kết thụ thể và thí nghiệm lây nhiễm virus cho các nuôi cấy tế bào khác nhau và chuột đã được nhân hóa”. “Chúng tôi sẽ sử dụng dữ liệu giải trình tự protein S, công nghệ nhân bản lây nhiễm [KC2], và các thí nghiệm lây nhiễm trong ống nghiệm và trong cơ thể (in vitro và in vivo)” – đơn thứ hai ghi rõ.
Nói cách khác, Tiến sĩ Daszak và Tiến sĩ Thạch đã tham gia vào loại nghiên cứu được gọi là tăng cường chức năng (gain in function) bằng tiền của những người đóng thuế Mỹ.
Nói một cách dễ hiểu, để chứng minh rằng virus có thể nguy hiểm, họ đã làm với chúng mọi thứ có thể để chúng trở nên nguy hiểm.
Ví dụ, họ đã gieo chúng vào môi trường nuôi cấy tế bào của con người, chọn lọc ra những virus nhân lên tốt, và gieo chúng lặp đi lặp lại, do đó đẩy nhanh quá trình tiến hóa tự nhiên lên gấp ngàn lần. Họ đã tạo ra virus chimera* bằng cách kết nối phần cơ bản (backbone) của một virus với các phần chèn, với mục đích tạo ra khả năng lây nhiễm tối đa. Sau đó, một lần nữa cho những virus chimera này đi qua tế bào người (in vitro) và chuột nhân bản (in vivo). Và cứ thế.
Chỉ riêng trong năm 2019, những người đóng thuế Mỹ đã phân bổ 661.980 đô la cho công trình khoa học đột phá này. Và từ năm 2014, Tiến sĩ Peter Daszak đã nhận được 3.748.715 đô la cho dự án. Nó được gọi là Understanding the Risk of Bat Coronavirus Emergence – Tìm hiểu nguy cơ bùng phát coronavirus của dơi.
Có thể nói, dự án đã thành công rực rỡ. Bây giờ, tất cả chúng ta đều đã hiểu nguy cơ này.
Thụ thể ACE2
Hình dung rằng SARS2 được tạo ra như một phần của gain of function, sẽ dễ dàng giải thích một số tính năng độc đáo về cấu trúc của nó.
Tính năng đầu tiên là SARS2 được tối ưu hóa cho ACE2 của con người.
Hãy nhớ rằng một loại virus – bất kỳ loại nào – xâm nhập vào tế bào thông qua một lối vào không được chỉ định. Giống như một tên trộm, nó trèo qua cửa sổ, hoặc cửa thông hơi, hoặc ống khói, mặc dù ống khói hoàn toàn không được tạo ra để vào nhà. Trong trường hợp coronavirus, đầu vào này là ACE2 (angiotensin-convert enzime 2), hay còn gọi là enzym chuyển đổi angiotensin 2. Nó là một protein màng nằm trên các tế bào phổi và có nhiệm vụ điều chỉnh huyết áp.
Protein S của coronavirus chui vào ACE2 giống như một chìa khóa chui vào lỗ khóa. Sau đó, một phần của protein này, vẫn còn ở bên ngoài (chúng ta sẽ nói về cái này), bị cắt bỏ, virus tiêm vật liệu gen của nó vào tế bào và bắt tất cả các cơ chế tế bào phức tạp nhất hoạt động cho mình, tạo ra ngày càng nhiều bản sao của virus.
Điểm chính ở đây là SARS2 đã được tối ưu hóa một cách đáng ngạc nhiên ngay từ đầu cho các thụ thể ACE2 của con người – tốt hơn gấp 10-20 lần so với SARS1!
Nó gắn kết tốt với ACE2 của con người đến nỗi đã không tiến hóa mấy kể từ khi ra đời: chỉ gần đây, các chủng virus mới mới bắt đầu xuất hiện, mà có khả năng lây nhiễm cao hơn đến mức đáng kể.
Điều này rất lạ! Một loại virus chuyển sang loài mới ban đầu thường không thích nghi lắm với vật mang mới và tiến hóa nhanh chóng. Ví dụ, dịch SARS đầu tiên, khi nó xâm nhập vào quần thể người, đã thay đổi khá nhiều. Còn SARS2, mặc dù phân bố rộng rãi và tiềm năng đột biến rất lớn, hầu như không thay đổi. Nó đâu cần thay đổi – nó đã hoàn hảo rồi.
Sự hoàn hảo ngoài ý muốn này, tất nhiên, có thể đã phát sinh một cách tự nhiên. Thiên nhiên đã khai hỏa, nhắm mắt lại và bắn trúng hồng tâm ngay lần đầu tiên. Nhưng đơn giản hơn nhiều khi cho rằng S-protein của SARS được tối ưu hóa cho ACE2 của con người vì nó đã trải qua một quá trình tối ưu hóa lâu dài trong phòng thí nghiệm trên tế bào người và chuột đã được nhân hóa.
Nicholas Wade cho biết: “Những người theo thuyết rỏ rỉ từ phòng thí nghiệm nói đùa rằng, tất nhiên, SARS2 đã lây nhiễm cho một loài trung gian trước khi nhảy sang người, và loài trung gian đó là những con chuột đã được nhân hóa ở Viện Virus học Vũ Hán”.
Hơn nữa, đây chính xác là kiểu gain of function mà Tiến sĩ Thạch đã thực hiện. Cùng với Ralph Berick, bà đã “dạy” coronavirus cách tốt nhất để tấn công các thụ thể ACE2 ở chuột thí nghiệm được nhân hóa.
Furin site
Luận điểm về ACE2 có vẻ như bị nói dai – thiên nhiên có thể tạo ra bất ngờ. Konstantin Chumakov nói: “để thích ứng với protein gai chỉ cần thay đổi một số axit amin, điều này không khó”. Vì vậy, sự tối ưu bất thường của SARS2 có thể xảy ra một cách tự nhiên.
Nhưng khó hơn nhiều để đưa ra lập luận tương tự về điểm phân tách furin (furin cleavage site).
Hãy cùng Yuri Deigin và Nicholas Wade xem xét nó, và trước tiên giải thích nó là thứ quái gì.
Phần nhọn trứ danh, protein S của coronavirus, bao gồm hai tiểu đơn vị. Một phần của protein S (S1) nhận ra protein ACE2 – protein mà virus liên kết vào. Còn phần thứ hai (S2) giúp virus, sau khi đã liên kết, hợp nhất với màng tế bào.
Sau khi điều này xảy ra, virus tiêm bộ gen của nó vào tế bào, và tế bào, thay vì phục vụ cơ thể, bắt đầu phục vụ vật chủ mới – virus. Để điều này xảy ra, S1 và S2 phải được tách biệt bởi một số cơ chế.
Virus không có cơ chế này, bởi vì nó hầu như không có gì của riêng mình, ngoại trừ một chuỗi nucleotide và protein vỏ. Virus sống bằng cách khiến các cơ chế của tế bào hoạt động cho nó. Mà trong tế bào thì có những cơ chế như vậy. Đặc biệt, nó có chứa enzyme furin, hoạt động như một con dao phân tử. Nó cắt protein ở những chỗ cần.
Chỗ nào cần? Có một hướng dẫn cho việc này. Ngay khi furin nhìn thấy chuỗi protein “proline – arginine – arginine – alanine”, hay là PRRA, nó sẽ cắt.
Dịch từ ngôn ngữ protein sang tiếng người, chuỗi “proline – arginine – arginine – alanine”chính là dòng chữ “cắt ở đây”.
Tiến sĩ Stephen Kay viết: “Các nhà virus học đã phát hiện ra rằng furin site khiến hầu hết mọi loại virus trở nên chết chóc hơn ngay từ năm 1992. Đã có ít nhất 11 bài báo mô tả thí nghiệm gain of function liên quan đến việc bổ sung furin site, và Thạch Chính Lệ (Shi Zhenli) là một trong những tác giả của các bài báo này.”
Và thế thì sao? Furin site – dòng chữ “cắt ở đây” nằm ngay giữa S1 và S2, – không có trong RaTG13, nhưng lại có trong SARS2.
Làm thế nào mà SARS2 có thể có site này?
Tất nhiên, nó có thể phát sinh tự thân. Nhưng điều này khó tin. Bốn axit amin là 12 nucleotide xếp theo đúng thứ tự. Đây là một cụm từ khá phức tạp trong ngôn ngữ protein.
Tất nhiên, trong quá trình tiến hóa, Tự nhiên đã sáng tạo ra những cụm từ thậm chí còn phức tạp hơn. Và nếu chúng ta đang nói về một sự kết hợp mới, vô song nào đó, thì chúng ta có thể tự tin nói rằng đây là kết quả của quá trình tiến hóa.
Nhưng furin site thì có những thứ tương tự! Và các thí nghiệm về việc chèn furin site vào coronavirus, như chúng ta sẽ thấy, là một mốt phổ biến. Chưa có năm nào trôi qua mà nó không được đưa vào. Trong trường hợp này, hóa ra mẹ Tự nhiên, khi gõ mù trên máy đánh chữ, đã không chỉ gõ cụm cần thiết – mã gõ chính xác cụm từ được nhà thí nghiệm lưu giữ ở phòng bên.
Tất nhiên, SARS2 có thể có được furin site theo một cách khác, cụ thể là bằng cách tái tổ hợp. Nếu hai loại virus cùng họ cùng ở trong một tế bào, chúng có thể trao đổi thông tin di truyền, và sau đó một loại virus mới sẽ được lắp ráp từ các mảnh và “phụ tùng” của những virus trước. Sự tái tổ hợp đối với virus cũng giống với sinh sản hữu tính của động vật bậc cao. SARS2 là một loại beta coronavirus, và nó có thể mượn một furin site từ bất kỳ loại beta coronavirus nào khác.
Vấn đề là, không một họ hàng gần nào của SARS2 – nói chung không có coronavirus nào, với bộ gen giống từ 40% trở lên với SARS2 – mà có furin site. “Đơn giản là chúng không cần,” Yuri Deigin giải thích, “không cần furin site để lây nhiễm cho dơi”.
Vậy những gì đọng lại? Gain of function. Thạch Chính Lệ biết về furin site, đã làm việc furin site – và SARS2, không giống như RaTG13, có furin site.
Chỉ riêng điều này thôi cũng đáng báo động rồi.
Tuy nhiên, Yuri Deigin là người đầu tiên nhận thấy một điều kinh ngạc khác. DNA và RNA mang thông tin di truyền mà chúng mã hóa bằng cách sử dụng nucleotide. Nucleotide, được lắp ráp ba đơn vị trên mỗi codon **, mã hóa axit amin nào đó. Khi đó, mã nucleotide có độ dư thừa cao. Rốt cuộc, chỉ có 20 axit amin, còn số lượng các tổ hợp ba nucleotide có thể có là 64. Do đó, nhiều axit amin được mã hóa bởi các tổ hợp khác nhau.
Điều quan trọng ở đây là, các cơ thể khác nhau có những sở thích khác nhau đối với những kết hợp này. Có thể nói, chúng sử dụng các ngôn ngữ khác nhau. Ví dụ, trong cơ thể người, arginine thường được mã hóa bởi sự kết hợp của CGT, CGC hoặc CGG. Còn coronavirus hầu như không bao giờ sử dụng kết hợp CGG.
Ấy vậy mà – trình tự axit amin tạo nên furin site của SARS2, proline-arginine-arginine-alanine, được mã hóa là trình tự nucleotide CCT-CGG-CGG-GCA.
Nói cách khác, SARS2 không chỉ có furin site, là điểm khác với RaRG13. Nó có furin site mà trong đó arginine được mã hóa bằng codon chỉ được sử dụng bởi coronavirus trong 5% trường hợp, còn sự kết hợp CGG-CGG kép thì không được tìm thấy ở bất kỳ coronavirus nào.
Thật khó để giải thích điều này bằng quá trình tiến hóa tự nhiên. “Tuy nhiên, nếu nói đến việc thoát khỏi phòng thí nghiệm, thì codon CGG kép không phải là một điều bất ngờ. Các codon được tế bào người ưa thích thường xuyên được sử dụng trong các phòng thí nghiệm. Vì vậy, một nhà thí nghiệm muốn chèn một furin site vào bộ gen của virus và tổng hợp trình tự nucleotide tạo ra PRRA trong phòng thí nghiệm rất có thể sẽ sử dụng các codon CGG cho việc này” – Wade viết.
Konstantin Chumakov nói: “Furin site chính là smoking gun – một khẩu súng còn bốc khói, đặc biệt là hai codon CGG. – Nếu quá trình chèn diễn ra tự nhiên, thì phải là sự tái tổ hợp từ các virus đã có sẵn furin site, nhưng nếu thế thì CGG kép ở đâu ra, nếu đây cũng là virus dơi? Điều này khá phù hợp với ý tưởng rằng nó đã được thực hiện một cách nhân tạo. “
RBM và tê tê
Yuri Deigin lưu ý thêm một tình huống – kỳ lạ đến mức tôi thậm chí còn do dự không biết có nên đưa nó vào bài viết này không. Không giống như câu chuyện về CGG codon kép, về mặt lý thuyết, nó có thể là kết quả của quá trình tiến hóa hội tụ, và hơn nữa, nó có thể là do mẫu bị nhiễm bẩn. Nhưng tôi cứ bị day dứt bởi nghi ngờ mơ hồ, rằng chính câu chuyện kỳ lạ này có thể là chìa khóa của mọi thứ.
Chuyện là thế này.
Vào thời kỳ đầu của dịch, như ta còn nhớ, có nhiều ý kiến cho rằng vật chủ trung gian của virus có thể là tê tê – họ hàng đẹp đẽ và vụng về của thú ăn kiến, được bao phủ hoàn toàn bằng vảy.
Sau đó, giả thuyết này đã bị loại bỏ. Không ai khác, chính là Tiến sĩ Daszak đã lượn khắp Malaysia và kết luận rằng những con tê tê địa phương không có bất kỳ loại virus nào giống covid.
Vậy câu chuyện tê tê là từ đâu ra?
Nó không ở trên trời rơi xuống. Thực tế là từ tháng 3 đến tháng 12 năm 2019, cách Vũ Hán 1000km, ở tỉnh Quảng Đông, hải quan Trung Quốc đã bắt được một số lô hàng tê tê lậu.
Những con vật đáng thương bị bọn buôn lậu vận chuyển trong những chiếc lồng chật chội, đã nhiễm lẫn nhau và không thể hồi phục – chúng ngất, hắt hơi và chết, bất chấp mọi sự chăm sóc của những người bảo vệ động vật. Tổng cộng 4 con tê tê Trung Quốc và 25 con Malay đã chết.
Số là – một phần của con virus gây bệnh cho tê tê Malaysia (chính xác là loại này) bị bắt giữ vào tháng 3 (chính xác là vào tháng 3), có sự giống nhau thực tế là 100%, giống đến không thể tin được, nhưng không phải với tất cả SARS2, mà chỉ với một phần nhỏ của nó. Cụ thể là, với một nhóm 77 axit amin được gọi là RBM – receptor binding motif – mô-típ liên kết thụ thể.
Nếu như protein S có thể được so sánh với một chùm chìa khóa phù hợp với thụ thể ACE2 của con người, thì chính chiếc chìa khóa, nghĩa là, chính thứ giúp virus bám vào, được gọi là receptor binding domain, hay RBD – miền liên kết thụ thể. Còn RBM, có thể nói, là các rãnh của chìa khóa.
Và rãnh chìa khóa này, bao gồm 77 axit amin, trùng hợp trong virus tê tê Malaysia bị bắt giữ ở Quảng Đông, và SARS2. Hay, chính xác hơn, nó chỉ khác với SARS2 bởi 1 axit amin.
Trong khi đó, tất cả các phần còn lại của virus tê tê đều khác xa với SARS2!
Tất nhiên, điều này một lần nữa có thể được giải thích bởi quá trình tiến hóa tự nhiên. Nhưng làm thế nào để tôi tả cho bạn? Kiểu như, nếu bạn thấy một người có chân bằng gỗ, thì tất nhiên, bạn có quyền cho rằng đó là do quá trình tiến hóa diễn ra theo những cách khó hiểu, và trong thời cổ đại, người và cây đã có một tổ tiên chung nào đó, tổ tiên đó có một chân bình thường và chân kia bằng gỗ. Nhưng cũng có thể cho rằng chân gỗ có nguồn gốc nhân tạo. Các dữ kiện quan sát được tương ứng với giả thuyết này.
Hãy để tôi nhắc bạn rằng, những con tê tê là từ Malaysia. Còn virus RaTG13 mà người ta đã lai với chúng, là từ Vân Nam. Thật logic khi giả định rằng, nơi có nhiều khả năng nhất để beta coronavirus tê tê Mã Lai và beta coronavirus dơi Vân Nam có thể gặp nhau và trao đổi vật chất di truyền là một cái bàn thí nghiệm ở Vũ Hán.
May mắn là, trong các bài báo của mình, Tiến sĩ Thạch đã mô tả các thao tác can thiệp rất giống thế. Gay từ 2007, bà đã thay thế RBD của một trong những coronavirus dơi bằng RBD SARS1 như một phần của gain of function.
Tại sao tôi lại cứ phải rào trước đón sau khi nói chuyện này? Vì hai lý do. Thứ nhất, RBM của tê tê được giải trình tự một cách không chất lượng. Deigin giải thích: “Virus này chỉ được lấy ra từ ba mẫu và chỉ có hai lần đọc (read) trong RBM này”. Thứ hai, câu chuyện về việc vay mượn RBM hoàn toàn từ tê tê về mặt trực giác mâu thuẫn với khẳng định rằng protein SARS2 S được tối ưu hóa để nhắm mục tiêu ACE2 của người. Nếu RBM được lấy từ một loại virus tê tê, tại sao sau đó nó không thay đổi khi được “chuyển hóa” trên những con chuột được nhân hóa?
Một trong những câu trả lời là, thật ra nó đã thay đổi một chút. Yuri Deigin nhắc: “Nó bị thay đổi bởi một axit amin, và ngoài ra, đã có khá nhiều sự thay thế nucleotide diễn ra, tức là các chữ cái biểu thị một axit amin. Bản thân các axit amin thì không thay đổi”. Sự thay thế như vậy là trung tính về mặt di truyền, và có thể dễ dàng xảy ra khi truyền qua những con chuột đã được nhân hóa. Hiện nay, S-protein của SARS2 tấn công tốt nhất vào ACE2 của người. Ở vị trí thứ hai, với mức chênh lệch nhỏ, là tê tê.
Gain of function
Không phải tất cả mọi người đều biết gain of function là gì, và các nhà khoa học biết làm những gì với virus, làm như thế nào, trong điều kiện nào và để làm gì. Vì vậy, sẽ rất hữu ích nếu dành một vài đoạn cho vấn đề này, đặc biệt là vì nó sẽ hữu ích cho ta ở đoạn sau.
Trong nhiều thập kỷ, quá trình tiến hóa trong phòng thí nghiệm của virus đã diễn ra trong quá trình nuôi cấy tế bào. Nếu người ta muốn virus thích nghi với một số vật mang mới, họ chỉ cần mạ nó lên các tế bào của vật mang đó (ví dụ, trên dòng tế bào HeLa của con người), theo dõi cách nó thích nghi, thu thập các nhà vô địch thích ứng, chọn và gieo lại.
Sau đó, vào những năm 1960, đến thời của các enzym giới hạn (restrictase). Restrictase là một loại enzyme phân cắt DNA ở một vị trí cụ thể. Thông thường, một enzym giới hạn nhận biết bốn hoặc sáu nucleotide liên tiếp. Các enzym giới hạn tồn tại trong vi khuẩn và vi khuẩn cổ, và chúng cắt vi rút. Trên thực tế, enzym giới hạn là cách vi khuẩn tự bảo vệ chống lại vi rút. Chúng nhận ra trình tự DNA của kẻ lạ và vung enzyme giới hạn như vung một thanh kiếm. Tại sao trong lúc đó nó không cắt phải DNA của chính mình? Ở đây có sự khôn ngoan: hoặc vi khuẩn không có trình tự như vậy, hoặc nó methyl hóa nó trước khi chiến đấu.
Với sự ra đời của các enzym giới hạn, công nghệ gene bắt đầu – các nhà sinh học có cơ hội cắt DNA ở một nơi được xác định nghiêm ngặt. Ví dụ, chính các enzym giới hạn đã tạo ra sự xuất hiện của insulin người với công nghệ gen. Hiện nay, số lượng enzym giới hạn được bán trên thị trường là khoảng 800. Bạn có thể cắt bất cứ thứ gì với chúng. Virus chimera, được tạo ra bằng các enzym giới hạn, mang dấu vết rõ ràng của quá trình lắp ráp liên kết chéo.
Tuy nhiên, vào những năm 2000, quy trình trở nên đơn giản hơn. Các enzym giới hạn đã được thay thế bằng các máy tổng hợp (synthesizers). Không cần phải cắt bất cứ thứ gì. Chỉ cần một nhà virus học gõ một chuỗi nucleotide trên bàn phím, giống như gõ một văn bản, và máy tự tổng hợp nó là đủ. Sau đó, DNA của virus có thể được đưa vào tế bào, và theo cách tương tự, nó làm cho tất cả các cơ chế của tế bào hoạt động cho nó, và tạo ra các bản sao mới của virus.
Chúng ta chưa biết cách tạo ra sự sống. Nhưng chúng ta đã biết làm thế nào để tạo ra tiền sự sống – virus. Chúng ta biết cách gõ chúng trên máy chữ.
Nhân tiện, chính việc gõ trên máy chữ có thể dễ dàng giải thích 2 codon CGG mà SARS2 mã hóa cho arginine. Konstantin Chumakov nói: “Nếu nó được thực hiện trên một máy tổng hợp, nó đã được thực hiện bởi các nhà khoa học máy tính không hiểu sinh học. Họ lấy bảng sử dụng codon tiêu chuẩn, chèn những codon được sử dụng ở người, và họ không quan tâm liệu coronavirus có ưa thích các codon khác hay không.”
Vấn đề chính của máy tổng hợp là máy đánh chữ gõ các cụm từ khá ngắn, và chúng phải được nối với nhau bằng cách nào đó. Điều này cũng được thực hiện bằng cách sử dụng các enzym giới hạn, và để lại dấu vết.
Tuy nhiên, sau đó các phương pháp đã được phát minh cho phép kết nối liền mạch. Một phương pháp như vậy đã được demo vào năm 2002 bởi Giáo sư Ralph Berick, huyền thoại về virus học tổng hợp và là thầy của Tiến sĩ Thạch. (Nhân tiện, ông ấy đã làm điều đó trên coronavirus.)
Sau khi loài người học cách in DNA, các nhà khoa học bắt đầu tách virus thành nhiều mảnh và tạo ra virus mới từ những mảnh này. Đó là một trải nghiệm rất thú vị và chúng có thể hiểu được. “Thứ nhất, nó rất thú vị, ”- đó là câu trả lời cho câu hỏi tại sao điều này nên được thực hiện, bởi Giáo sư Đại học Rutgers và Skoltech, nhà sinh học phân tử nổi tiếng Konstantin Severinov.
Vào năm 2011, Tiến sĩ Ron Fouchier đã chứng minh rằng cúm gia cầm độc lực cao (A/H5N1) có thể lây lan sang người qua các giọt nhỏ trong không khí, nếu chỉ thay đổi 5 axit amin. Tiến sĩ Fouchier viết: “Để kiểm tra nỗi lo sợ rằng virus có thể thực hiện điều này trong điều kiện tự nhiên, chúng tôi đã biến đổi gen của vi-rút A/H5N1 bằng cách sử dụng cách gây đột biến hướng vào vị trí (site-directed mutagenesis) và truyền nối tiếp tiếp theo (serial passage) trong chồn.”
Từ “chồn” trong trường hợp này không nên làm chúng ta lúng túng: cơ chế lây truyền virus trong không khí giữa các đại diện của họ chồn là gần nhất với con người. Nếu virus của bác sĩ Fouchier thoát ra ngoài, dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 sẽ giống như trường mẫu giáo. Tiến sĩ Paul Keim nói: “Tôi không thể tưởng tượng ra một thứ gây bệnh tệ hơn thế. Bệnh than không đáng xách dép cho nó.”
Đầu tiên, tiến sĩ Fouchier cố gắng đạt được sự lây truyền trong không khí của virus tổng hợp của mình bằng cách sử dụng phương pháp di truyền ngược, nhưng đã thất bại. Sau đó, ông ta chỉ đơn giản là bắt đầu chạy virus qua phổi của những con chồn hương sống. Ông ấy chỉ mất 10 (mười!) thế hệ để đạt được điều mình muốn.
Điều mà tiến sĩ Fouchier không thành công, thì tiến sĩ Yoshihiro Kawaoka của Đại học Tokyo lại thành công, cùng một thời gian.
Ông đã lấy loại virus cúm lợn H1N1 tốt nhất, kết hợp nó với virus cúm gia cầm H5N1, và tạo ra virus chimera.
Tất cả chỉ với mục đích cao cả là thuyết phục chúng ta rằng bệnh cúm có thể nguy hiểm.
Sau năm 2002, bên cạnh các thí nghiệm với virus cúm, đã có thêm các thí nghiệm với coronavirus. Trò giải trí yêu thích của các nhà khoa học là nhét vào coronavirus một furin site.
Tiến sĩ Nunberg đã đưa nó vào SARS năm 2006, tiến sĩ Fumihiro Taguchi cũng làm như vậy vào năm 2008, và một thí nghiệm tương tự cũng được tiến sĩ Rotier thực hiện cùng năm. Năm 2009, tiến sĩ Whittaker đã trồng những hai furin site vào SARS1. Các đồng chí Trung Quốc cũng không tụt lại phía sau, và vào tháng 10/2019, họ đã chèn một furin site vào coronavirus lây nhiễm cho gà.
Nhưng, miễn bàn, nhà vô địch trong việc thao túng coronavirus là Viện Vũ Hán hoàn toàn mới, và ngôi sao của nó, Tiến sĩ Thạch Chính Lệ, người đã học với các nhà virus học phương Tây giỏi nhất và sớm vượt các thầy.
Năm 2007, Tiến sĩ Thạch đã tạo ra một loạt virus chimera dựa trên coronavirus dơi, chèn các chuỗi khác nhau từ SARS1 và từ pseudovirus (tức là một loại virus tổng hợp nhân tạo) gây suy giảm miễn dịch ở người.
Vào năm 2015, tiến sĩ Thạch và Ralph Berick nói trên, một huyền thoại sống về virus học, đã lấy con SARS1 quen thuộc (một protein S, như chúng ta nhớ, không tối ưu cho sự lây nhiễm của con người) làm cơ sở, và đưa ra một loại S protein trên virus SHC014-CoV vào nó. Kết quả là – ai mà ngờ được! – dễ lây lan và theo các tác giả của bài báo, đã chứng minh khả năng xuất hiện dịch bệnh mới từ coronavirus của dơi móng ngựa.
Vào năm 2017, tiến sĩ Thạch và tiến sĩ Daszak báo cáo rằng họ đã tìm thấy bốn coronavirus dơi mới trong hang động Vân Nam, chúng liên kết hiệu quả với các thụ thể ACE2 của con người trong ống nghiệm và họ đã tạo ra từ một trong những coronavirus này, mà họ gọi là WIV1, tận 8 chimeras. “Tất cả các virus đã sao chép thành công trong các tế bào biểu hiện ACE2 của con người.”
Yuri Deigin lưu ý: “càng đắm mình vào nghiên cứu của các nhà coronavirus học trong vòng 15–20 năm qua, bạn càng nhận ra rằng việc tạo ra các chimera như CoV2 đối với họ là một hoạt động thường xuyên trong phòng thí nghiệm”.
Tại sao họ làm thế, bạn hỏi?
Có hai câu trả lời khác nhau, thậm chí trái ngược nhau cho điều này (ngoài câu trả lời trung thực của Severinov rằng nó đơn giản là rất thú vị).
Gain of function chính là cách để hiểu cơ chế hoạt động của sự sống.
Bạn có muốn có insulin được biến đổi gen không? Một phương pháp chữa trị bệnh máu khó đông? Ung thư? Bệnh Alzheimer? Bạn có muốn sống mãi không? Điều này nghĩa là bạn phải nghiên cứu gain of function.
Konstantin Chumakov nói: “Gain of function cần thiết để hiểu cách Tự nhiên hoạt động, và học cách điều khiển nó. Tìm hiểu cấu tạo của đồng hồ như thế nào? Lấy bánh răng ra và xem đồng hồ chạy tốt hơn hay tệ hơn. Đây là một cách tìm hiểu Tự nhiên. Không có cách nào khác. ” Gain of function cần thiết để hiểu cơ chế hoạt động của chiếc đồng hồ của Thượng đế.
Konstantin Severinov nói: “Tất cả sự tiến hóa liên tục, sự xuất hiện của phức hợp từ đơn giản, là gain of function. Ví dụ, loài mới có thể phát sinh khi tập hợp đột biến được tích lũy mang lại lợi thế cho vật mang so với dạng ban đầu. Đó chính là việc kiếm thêm chức năng. Nghiên cứu gain of function chính là nghiên cứu về sự sống theo nghĩa rộng. “
Yuri Deigin có một cái nhìn đen tối hơn nhiều về những gì đang xảy ra. “Gain of function,” ông nói, “cần thiết cho những người làm công việc đó, để được tiếp tục làm việc đó, tạo dựng sự nghiệp và nhận được tài trợ. Nó là một cỗ máy ăn tiền tự hành. Câu trả lời mà họ bán cho những nhà tài trợ là, gain of function giúp họ hiểu được những nguy hiểm mà họ sẽ ngăn ngừa. Điều này rất hợp với các nhà tài trợ, những người không hiểu gì về sinh học, nhưng lại sợ dịch bệnh và khủng bố sinh học”.
Nghe có vẻ nghịch lý, hai quan điểm này cũng không đối lập nhau lắm. Sự sống là sự sống, ở mọi nơi và trong tất cả. Và nếu một người học cách trở thành Thượng đế và tạo ra sự sống, thì anh ta sẽ tạo ra sự sống trong tất cả các biểu hiện của nó: cả những chú mèo lông xù lẫn bệnh dịch.
Một cỗ máy đồng hóa tài trợ khổng lồ tồn tại, nhưng vấn đề là phần ký sinh của khoa học rất khó tách rời khỏi phần thực. Tự do khoa học cũng giống như tự do ngôn luận. Nó không thể là về việc chỉ nghiên cứu những điều đúng đắn.
Tuy nhiên, khoa học có một trách nhiệm to lớn – đó là cố gắng xác lập các sự kiện. Mô tả những gì đã xảy ra, mặc dù nó có thể dẫn đến việc mất các khoản tài trợ và địa vị.
Ví dụ, Tiến sĩ Ralph Berik nêu trên – mentor của Thạch Chính Lệ và là người tiên phong trong việc lắp ráp liền mạch các virus được tạo ra nhân tạo – đã ký một bức thư đăng trên tạp chí Science vào ngày 14/ 5, yêu cầu một sự tìm hiểu khách quan về nguồn gốc của virus. Ông đặt chữ ký của mình bên cạnh chữ ký của nhà sinh học phân tử bất đồng chính kiến về virus Alina Chan, bất chấp việc tiến sĩ Berik có thể là người đầu tiên bị tấn công nếu virus rốt cuộc là đào thoát từ phòng thí nghiệm.
Tiến sĩ Daszak, một người chiến đấu cho thiên nhiên, tiêu diệt loài săn mồi đang đe dọa nhân loại bằng những trận dịch khủng khiếp, đã chọn một con đường khác. Cho đến trước dịch bệnh, ông ta tự hào nói về việc mình đã thu thập và tháo rời các coronavirus tuyệt vời như thế nào. Ông ta đã thực hiện cuộc phỏng vấn cuối cùng kiểu này của mình vào ngày 9/12/2019. Tiến sĩ Daszak nói: “Coronavirus có thể dễ dàng thao túng trong phòng thí nghiệm. Phần lớn những gì xảy ra với coronavirus về nguy cơ lây truyền từ động vật phụ thuộc vào S-protein. Vì vậy, bạn có thể thực hiện trình tự, bạn có thể xây dựng protein, và tôi và Ralph Berick tại UNC đang làm điều đó. Tiêm nó vào cơ sở của một loại virus khác (chữ nghiêng của tác giả bài viết Yu. Latynina) và thực hiện một số việc.”
Thế nhưng, ngay sau khi bệnh dịch được biết đến, Tiến sĩ Daszak, từng giải thích việc thao túng coronavirus trong phòng thí nghiệm dễ dàng thế nào, đã bắt đầu ra sức phủ nhận việc virus Vũ Hán có thể thoát ra từ ống nghiệm, và vào tháng 4/2020 đã lên án nghiêm khắc “chính trị hóa đại dịch” và “các thuyết âm mưu”.
Chính Tiến sĩ Daszak là người khởi xướng bức thư của nhóm khoa học kiểu đảng ủy, lên án nghiêm khắc những bịa đặt phản động của những kẻ bảo thủ về khả năng có nguồn gốc từ phòng thí nghiệm của virus.
Rốt cuộc, nếu hóa ra virus thoát ra khỏi phòng thí nghiệm và hàng triệu USD chi cho Tiến sĩ Daszak không cứu được ai, mà hoàn toàn ngược lại – lại chính là tác nhân gây ra đại dịch, thì ông ta không có cửa để có những khoản tài trợ.
Làm sao tiến sĩ Daszak có thể cho phép kẻ thù của mình cướp đi kinh nghiệm vô giá của nhân loại trong việc ngăn chặn các thảm họa trong tương lai?
Vào tháng 4/2020, ai đó đã mách về tiến sĩ Daszak cho Tổng thống Trump, và khoản tài trợ đã bị hủy bỏ một cách đầy tai tiếng. Điều này đã gây ra sự phẫn nộ của cộng đồng khoa học tiến bộ. Tiến sĩ Angela Rasmussen đã đăng một bài báo trên tạp chí Nature, trong đó bà gọi việc hủy bỏ tài trợ là “một tiền lệ lạnh người” dựa trên “thông tin sai lệch” và “tuyên truyền chính trị”, và cuộc đấu tranh quên mình chống lại điều đó đã khiến bà tổn thương tinh thần. “Tôi đã bị đe dọa bạo lực và tấn công tình dục – than ôi, đây là một rủi ro nghề nghiệp cho những người vạch trần tin thất thiệt, và thật không may là tôi đã quen với việc này,” Tiến sĩ Rasmussen viết trong một bài báo mà, xin nhắc lại, không phải được xuất bản trong một tạp chí nữ quyền nói về những khó khăn trong cuộc sống giữa những con đực trắng lông lá, mà là trên tạp chí Nature.
Nhưng tiến sĩ Rasmussen đã là gì! Chẳng bao lâu sau, 77 người đoạt giải Nobel đã ký một lá thư lên án việc hủy bỏ tài trợ, tước đi “một nền khoa học đáng kính của thế giới, có thể giúp đối phó với một trong những cuộc khủng hoảng y tế lớn nhất trong lịch sử hiện đại, cũng như những cuộc khủng hoảng có thể phát sinh trong tương lai. “
77 người đoạt giải Nobel, lại thêm quấy rối tình dục, như bạn biết, là vũ khí cỡ lớn, và sau một cuộc pháo kích như vậy, số tiền lại được trao cho Daszak, và hơn nữa, được tăng gấp đôi. Vào tháng 8 năm 2020, NIAID, do Tiến sĩ Anthony Fauci đứng đầu, đã phân bổ 7,5 triệu đô la cho Tiến sĩ Daszak để nghiên cứu các loại virus hoang dã mới.
These are very well-run labs
Như chúng ta thấy, Tiến sĩ Daszak có ảnh hưởng đáng kể, cộng với niềm tin sắt đá kiểu Lysenko, ông ta dùng nó để chống lại những lời bịa đặt phản động và thuyết âm mưu ảo tưởng của những kẻ độc ác xâm phạm địa vị và phúc lợi của ông. Tiến sĩ Daszak nói: “Ý tưởng cho rằng virus thoát ra khỏi phòng thí nghiệm là hoàn toàn bịa đặt. Nó không đúng … Đó là những phòng thí nghiệm được vận hành rất tốt”.
Cái gì có thể khiến tiến sĩ Daszak tự tin được thế?
Ngắn gọn mà nói, chẳng có gì. Virus thoát ra khỏi ngay cả những phòng thí nghiệm an toàn nhất, bởi vì con người là con người, và shit happens.
Ví dụ ở Nga, trong phòng thí nghiệm Vektor ở Novosibirsk, người ta đã bị nhiễm Ebola và Marburg nhiều lần. Năm 1990, Sergey Vizunov bị nhiễm Marburg (lấy ngón tay dụi mắt) và trưởng phòng thí nghiệm Nikolai Ustinov (chích quai bị nhưng trượt và chọc thủng hai lớp găng tay bảo vệ). Năm 2004, một trợ lý phòng thí nghiệm, Antonina Presnyakova, đã bị nhiễm virus Ebola với một ống tiêm bị ném vào một thùng chứa. Presnyakova và Ustinov đã chết. Vizunov sống sót. Tổng cộng, trong “Vektor”, ngoài Presnyakova, ba người khác bị nhiễm Ebola. Tại Sverdlovsk năm 1979, thị trấn quân sự số 19 đã khéo lây nhiễm bệnh than cho cả một khu vực.
Trái ngược với lo ngại của dân thường, cả Ebola và Marburg đều không có khả năng gây ra dịch lớn. Chúng chỉ được truyền từ người này sang người khác qua máu và các chất tiết khác của cơ thể. Rửa tay sau khi đi vệ sinh và bạn sẽ không bị ốm. Nó nguy hiểm cho các nước châu Phi, nhưng không nguy hiểm cho châu Âu và thậm chí cho cả Nga.
Một vấn đề hoàn toàn khác là virus được truyền từ người sang người bằng các giọt nhỏ trong không khí.
Ví dụ, dịch cúm nghiêm trọng năm 1977 khả năng cao là đã thoát khỏi phòng thí nghiệm của Liên Xô, nơi họ cố gắng tạo ra một loại vắc-xin tốt, hoặc khôi phục lại “bệnh cúm Tây Ban Nha”. Bệnh đậu mùa đã trốn thoát khỏi các phòng thí nghiệm của Anh ba lần, và SARS đầu tiên là nhà vô địch trong việc trốn thoát nhanh chóng từ một ống nghiệm: trong lịch sử ngắn ngủi của mình, kẻ tái phạm này đã trốn thoát khỏi các phòng thí nghiệm ở Singapore, Đài Loan và ít nhất hai lần từ các phòng thí nghiệm của Trung Quốc, được xây dựng rất nhanh theo nhịp độ xung kích kiểu cộng sản và thường được phục vụ bởi đội ngũ nhân viên không được đào tạo bài bản, lương thấp và thờ ơ.
Viện Virus Vũ Hán là thế nào trong bối cảnh này?
Năm 2017, nó đạt tiêu chuẩn phòng thí nghiệm có độ bảo mật cao nhất đầu tiên ở Trung Quốc – BSL4. Viện đã trả 44 triệu đô la cho nó, và kể từ đó hầu như mọi bức ảnh đều mô tả tiến sĩ Thạch trong một bộ đồ được bơm căng với áp suất dương: như trong vũ trụ vậy.
Phòng thí nghiệm được mở cửa vào năm 2017, nhưng các thanh tra Mỹ đến thăm nó vào năm 2018 đã bị sốc bởi sự bất cẩn của nhân viên và trình độ đào tạo thấp. Sự bất cẩn và thiếu chuyên nghiệp như vậy của cấp dưới là điều hoàn toàn tự nhiên đối với một quốc gia đang tiếp thu ngành virus học hiện đại theo mệnh lệnh và nhịp độ nhanh. Hơn nữa, Vũ Hán, như đã nói, chỉ nhận được 10% số tiền được phân bổ cho Tiến sĩ Daszak để phòng chống dịch bệnh coronavirus bằng cách biến coronavirus vô hại thành mầm bệnh nguy hiểm nhất.
Tuy nhiên, trên thực tế, đó thậm chí không phải là vấn đề của sự thiếu chuyên nghiệp. BSL4 hoàn toàn không hoạt động với coronavirus. Họ đã làm việc với coronavirus ở cấp độ BSL3 và BSL2, như chính tiến sĩ Thạch đã xác nhận trong một cuộc phỏng vấn với Science. Đồng thời, ở cấp độ BSL3, họ đã làm việc với SARS1. Các coronavirus dơi đã được nghiên cứu ở cấp độ BSL2. BSL2, nói một cách đơn giản, là găng tay và áo choàng.
Không thể tin được, nhưng đó là sự thật. Trên khắp thế giới, BSL4 đã được sử dụng để chống lại các loại virus như Marburg hoặc Ebola, những virus không thể gây ra dịch bệnh ở một quốc gia văn minh, nhưng để làm việc với coronavirus lây lan qua không khí, lại chỉ cần các biện pháp phòng ngừa như cho một phòng khám răng.
Yuri Deigin nói: “Đấy là sau này bạn mới nhận ra rằng họ là những kẻ ngốc, nhưng họ đã nghiên cứu virus dơi, và trước khi furin site được đưa vào, nó lây truyền rất kém. Vâng, đã có sáu thợ mỏ hít thở đủ lâu trong mỏ, nhưng họ không lây cho bất cứ ai. Họ nghĩ, coronavirus, thì sao. Cảm lạnh cũng là một loại coronavirus. Nó không giết ai cả. Xin lưu ý rằng SARS1 lây truyền kém. Virus dơi không bám dính tốt vào con người, vì vậy họ nghĩ rằng nó vô hại”
Những năm 2010 là thời điểm các phòng thí nghiệm virus học bắt đầu mọc lên như nấm trên khắp thế giới. Nếu trước đây một phòng thí nghiệm như vậy là nơi sáng tạo của những giáo sư đáng kính, thì giờ đây, khi khoa học đã trở nên phổ biến, như iPhone, chúng bắt đầu được xây dựng như những tiệm bánh. Trung Quốc, nước không có một BSL4 nào đến năm 2016, đang xây dựng, ngoài Vũ Hán, ba cái nữa – ở Bắc Kinh, Cáp Nhĩ Tân và thành phố sáu triệu dân Côn Minh, thủ phủ của Vân Nam.
Nếu mọi thứ diễn ra với tốc độ như vậy, thì chẳng bao lâu nữa người ta sẽ chế virus chimera ở trong bếp nhà mình.
Trong điều kiện mở rộng bùng nổ như vậy, câu hỏi liệu một chimera khác có thoát ra được hay không không nên đặt ra. Câu hỏi cần đặt ra là, khi nào nó sẽ thoát ra.
Trong những điều kiện này, tuyên bố của Tiến sĩ Daszak về “các phòng thí nghiệm được quản lý tốt” nghe rất kỳ quặc. Chúng tôi xin nhắc lại, đây không phải là về một sự kiện ngẫu nhiên, không phải về một ngoại lệ quái dị như vụ nổ Chernobyl. Vấn đề là các phương pháp thao tác di truyền của virus ngày càng trở nên dễ tiếp cận hơn, và số lượng các phòng thí nghiệm trên khắp thế giới đang tăng lên theo cấp số nhân. Đồng thời, trình độ của những người làm việc trong các phòng thí nghiệm này, và đặc biệt là các nhân viên kỹ thuật cơ sở, còn nhiều điều phải cải thiện.
Điều này đặc biệt đúng đối với Trung Quốc, quốc gia đang tạo ra virus của mình bằng các phương pháp cưỡng bức ngay từ đầu. Chúng ta ở Liên Xô cũ đã quen thuộc với thực tiễn của các dự án xây dựng xung kích xã hội chủ nghĩa. Đúng vậy, mối đe dọa của dịch bệnh truyền từ động vật vẫn tồn tại, nhưng cuộc chiến chống lại nó bằng cách tạo ra những con virus chết người của một trợ lý phòng thí nghiệm với găng tay và áo choàng không làm giảm nó, mà còn làm tăng đáng kể.
Tôi có thể thành thật nói rằng thuyết thoát khỏi phòng thí nghiệm luôn có vẻ rất hợp lý đối với tôi – xét cho cùng, nó dễ dàng giải thích sự thật rằng dịch bệnh không bắt đầu từ nơi loài dơi được tìm thấy, mà là nơi đặt viện nghiên cứu chúng.
Nhưng cùng lúc đó, tôi tin rằng một loại virus tự nhiên hoặc virus được “truyền” vào chuột trong phòng thí nghiệm đã thoát ra khỏi viện nghiên cứu, và do đó không thể phân biệt được với virus tự nhiên. Trong quá trình chuẩn bị bài viết này, tôi rất ngạc nhiên khi hiểu rằng, một sinh viên năm cuối có thể lắp ghép một loại virus trên một máy tổng hợp.
Trong những điều kiện như vậy, việc cố gắng thay đổi virus chỉ bằng cách tự nhiên đơn giản là không hợp thời. Nó giống như một bác sĩ phẫu thuật đang cố gắng thực hiện một ca phẫu thuật, kiên quyết từ chối dao mổ laser và thay vào đó sử dụng rìu của người bán thịt. Điều này đã lỗi thời. Sẽ không có tài trợ nào được cấp cho việc này.
Dao cạo Ockham
Những người ủng hộ thuyết nguồn gốc tự nhiên của virus đã bảo vệ nó với một sự nhiệt thành dành cho tín điều hơn là khoa học. Câu hỏi được tuyên bố là đã giải quyết xong trước khi nó được nêu ra. Và tất cả những ai tiếp tục đặt câu hỏi đều bị tuyên bố là phân biệt chủng tộc, quái đản và âm mưu. Ngay cả bây giờ, khi diễn ngôn “chuyện vớ vẩn” đã dần hết mốt và được thay thế bằng một câu nói hợp lý hơn “chưa được chứng minh”, những người phản đối thuyết này vẫn bị cười nhạo.
Konstantin Severinov nói: “Ở bất kỳ cơ thể nào, kể cả virus tự nhiên, nếu bạn quan sát kỹ bộ gen, bạn sẽ thấy nhiều điểm bất hợp lý đáng kinh ngạc. Theo quan điểm của những người này, thực tế là loại virus này rất phức tạp là bằng chứng cho thấy ai đó đã tạo ra chúng. Gần như những lập luận tương tự đã được nhà thờ đưa ra vào thế kỷ thứ 10 chống lại ý tưởng về sự tiến hóa, nhưng những lập luận đó không thuyết phục”. “Tôi không cho là bất hợp lý (out of reasonable) sự xuất hiện của bất kỳ loại vi rút nào ở bất kỳ đâu vào đúng thời điểm (theo quan điểm của virus). Sự tiến hóa là ngẫu nhiên”. Severinov nói.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng thuyết về nguồn gốc nhân tạo của virus giải thích nhiều tính năng của nó thuyết phục hơn so với thuyết về nguồn gốc tự nhiên.
Thuyết về nguồn gốc tự nhiên không thể giải thích bằng cách nào mà virus, có tổ tiên là coronavirus Rhinolopus affinis, lại đi 1.5 nghìn km từ môi trường sống của nó đến Vũ Hán. Thuyết thoát khỏi phòng thí nghiệm thì có giải thích đơn giản: nó được mang đến bởi các nhà khoa học từ Viện Vũ Hán.
Thuyết nguồn gốc tự nhiên không thể tìm ra động vật trung gian. Thuyết trốn thoát trong phòng thí nghiệm giải thích rằng động vật trung gian là một con chuột đã được nhân hóa. Đó là lý do tại sao virus đã được tối ưu hóa cho ACE2 của con người ngay từ đầu.
Thuyết trốn thoát trong phòng thí nghiệm tuyên bố rằng SARS2 có được furin site của nó vì nó được đưa vào phòng thí nghiệm như một phần của gain of function, như được mô tả trong công trình trước đây của chính tiến sĩ Thạch. Đó là lý do tại sao đoạn chèn này sử dụng hai codon CGG xấu số kia, rất giống với dòng chữ “Tuấn đã ở đây”.
Thuyết nguồn gốc tự nhiên cho rằng furin site tự hình thành. Thiên nhiên thực sự là một nhà thiết kế độc đáo, và sự ngẫu nhiên là kỹ sư giỏi nhất. Richard Feynman đã từng bật cười trước sự tuyệt đối hóa của xác suất. “Một sự kiện phi thường đã xảy ra với tôi ngày hôm nay,” anh nói. – “Hãy tưởng tượng, trên đường đến phòng thí nghiệm tôi đã nhìn thấy chiếc ô tô biển số AF194. Bạn có thể tưởng tượng, xác suất để tôi nhìn thấy chiếc xe có đúng biển số đó nhỏ như thế nào không? “
Vấn đề trong trường hợp này chính là lý thuyết xác suất chống lại thuyết “tự nhiên”. Nếu SARS2 của chúng ta có được khả năng gây bệnh bất thường thông qua một cơ chế mới, hoàn toàn chưa được biết đến, thì tất nhiên, chúng ta sẽ đồng ý rằng nó là tự nhiên. Nhưng vấn đề là ở chỗ, cơ chế không phải là chưa được biết! Cơ chế này đã được mô tả một cách hoàn hảo, và nó đã được mô tả bởi các nhân viên của viện nằm trong thành phố nơi dịch bệnh bùng phát.
Việc Feynman gặp một chiếc xe mang số hiệu AF194 thực sự là một sự tình cờ. Nhưng nếu anh ta gặp chiếc xe này hai lần – lần đầu ở nhà, rồi ở đầu kia của thành phố, và ngày hôm sau anh ta gặp chiếc xe thứ hai, số AD478, lần đầu ở nhà, rồi ở đầu kia của thành phố, và sau đó là chiếc thứ ba, thứ tư, thì khó có thể được gọi là tình cờ. Sẽ có lý hơn nhiều nếu giải thích là Feynman đang bị theo dõi.
Tôi được dạy rằng nên sử dụng dao cạo Ockham*** trong khoa học. Dao cạo Ockham trong trường hợp này không đứng về thuyết nguồn gốc tự nhiên. Tất nhiên, chúng ta có thể nói rằng tất cả những điều này chỉ là bằng chứng gián tiếp, và cơ sở dữ liệu của Viện Vũ Hán vào ngày 30/12 đã sập tình cờ. Nhưng nếu vậy thì, thuyết của Copernicus, so với thuyết của Ptolemey, cũng chỉ dựa trên bằng chứng gián tiếp cho đến khi Yuri Gagarin bay vào vũ trụ.
Phản bác
Thế còn những bài báo và những bức thư tập thể, ngay khi mới bắt đầu đại dịch, đã vạch trần những kẻ theo thuyết mưu, bị mê muội bởi các thuyết phân biệt chủng tộc về nguồn gốc của virus thì sao?
Chúng ta hãy xem xét chúng.
Bài báo Nguồn gốc gần giống của SARS-CoV-2 đã được ký bởi một số nhà virus học hàng đầu thế giới, bao gồm Christian Andersen của Viện Scripps. Bởi một sự trùng hợp may mắn, chính tiến sĩ Andersen, cùng với tiến sĩ Daszak, đã trở thành một trong những người may mắn nhận được gói tài trợ 87 triệu từ tiến sĩ Fauci vào tháng 8/2020 để nghiên cứu mầm bệnh từ động vật truyền sang người. Tiến sĩ Andersen và tiến sĩ Dasek lần lượt đứng thứ hai và thứ ba trong danh sách.
Bài báo đưa ra hai luận điểm.
Nó lưu ý rằng vi rút mới được tối ưu hóa để liên kết với thụ thể ACE2, nhưng theo một cách hoàn toàn khác với SARS1. – Tiến sĩ Andersen viết, – nếu ai đó quyết định tạo ra loại virus này trong phòng thí nghiệm, người đó sẽ lấy SARS1 làm cơ sở, nhưng virus của chúng ta làm điều đó theo một cách hoàn toàn khác, vậy thì nó có nguồn gốc tự nhiên.
Nhưng lập luận này là phi lý. Chỉ cần đọc các bài báo của tiến sĩ Thạch, bài này và bài này, để thấy rằng tiến sĩ Thạch thường sử dụng các coronavirus khác ngoài SARS làm cơ sở (backbone) trong các thí nghiệm của mình.
Và điều này là dễ hiểu. Không ai cấp cho bác sĩ Thạch bất kỳ khoản tài trợ nào của người Mỹ cho gain of function với SARS, do đó mục đích nghiên cứu của bà là chỉ ra rằng các coronavirus khác trong điều kiện thay đổi nhất định, có thể nguy hiểm không kém SARS. SARS đã là một loại virus nguy hiểm. Không cần chứng minh thêm.
Luận điểm thứ hai của bức thư còn lạ lùng hơn. Các tác giả của nó ghi nhận một đặc điểm độc đáo của SARS2 là furin site, và báo cáo rằng “các hậu quả chức năng của vị trí cắt polibasic trong SARS-CoV-2 là chưa rõ”. Và một site như vậy “có thể xuất hiện như là kết quả của một quá trình tiến hóa tự nhiên.”
Làm thế nào để từ những tuyên bố này đi đến kết luận về nguồn gốc tự nhiên của furin site? Câu trả lời là không có cách nào.
Các tác giả của bức thư cho rằng mục đích của site là không xác định, và trong các sarbecovirus khác không có nó. Và đó là tất cả. Đồng thời, họ quên đề cập rằng mục đích của site này đã được biết rõ (nó làm tăng hiệu quả của virus), rằng các site tương tự đã được mô tả trong nhiều bài báo, bao gồm cả công trình của tiến sĩ Thạch, rằng sự tiến họa tự thân của 12 nucleotide thành đoạn text thường xuyên được sử dụng để chèn nhân tạo vào coronavirus dường như không thể xảy ra, và hai trong số bốn protein của site không được mã hóa bởi codon mà coronavirus thích, mà là codon mà nhà nghiên cứu trong phòng thí nghiệm thích.
Nói thẳng ra, mặc dù bài này đã được đăng trên tạp chí Nature và có chữ ký của các nhà virus học hàng đầu của Mỹ, nhưng rất khó để coi nó là một công trình khoa học. Nó chỉ là một loạt các từ khoa học nghe đẹp đẽ: “thụ thể ACE2”, “glycan liên kết O”, “địa điểm cắt polybasic” …
Bộ từ này được sử dụng để gây ác mộng cho người đọc bình thường và khiến anh ta cảm thấy rằng anh ta đang đối mặt với những người chuyên nghiệp với trình độ mà anh ta không thể với tới, trong khi các tác giả không có luận điểm nào. Các tác giả của bức thư này cư xử như những nhà giả kim thời Trung cổ, những người sử dụng tất cả kiến thức đáng kể của họ trong lĩnh vực hóa học không phải để giải thích các phản ứng hóa học, mà để làm phiền nhà tài trợ và rút tiền của anh ta để tài trợ cho việc tìm kiếm viên đá triết học.
Nhưng điều nổi bật nhất của bài báo này là riêng tiến sĩ Christian Andersen lại có một ý kiến khác. “Eddie, Chúa ơi, Mike, và bản thân tôi thấy rằng bộ gen của virus không phù hợp với kỳ vọng của thuyết tiến hóa,” tiến sĩ Andersen viết vào ngày 1/2/2020 trong một bức thư riêng gửi cho người đứng đầu NIAID, Tiến sĩ Anthony Fauci. “Một số chi tiết (có thể) trông nhân tạo.” Ngay sau khi nhận được bức thư này, Tiến sĩ Fauci đã gọi một cuộc họp bí mật. Bức thư này đã gây sốc.
Có lẽ, các luận điểm trong bức thư đăng trên Lancet nặng ký hơn?
Than ôi, không.
Bức thư gửi cho Lancet hoàn toàn không phải là một tài liệu khoa học. Nó trông giống như một nghị quyết ủng hộ việc giải trừ quân bị hoặc lên án quân đội Israel, được thông qua ở một nơi nào đó trong cuộc họp của đảng ủy tại một nhà máy sản xuất đồ nội thất, hơn là một lá thư của các nhà virus học hàng đầu thế giới.
Bức thư này ca ngợi “những nỗ lực phi thường” của các nhà khoa học và bác sĩ Trung Quốc đã “làm việc siêng năng và hiệu quả để xác định mầm bệnh đằng sau đợt bùng phát, thực hiện các bước quan trọng để giảm tác động của nó và chia sẻ kết quả một cách minh bạch với cộng đồng nhiên cứu khoa học và y tế trên toàn thế giới”.
Bức thư tuyên bố đoàn kết với các đồng nghiệp Trung Quốc, kêu gọi “lên án nghiêm khắc” các thuyết âm mưu và thông tin sai lệch, “thúc đẩy sự thật khoa học và đoàn kết chống lại thông tin sai lệch và suy đoán.” “Chúng tôi muốn các bạn – các nhân viên khoa học và y tế Trung Quốc biết rằng chúng tôi sát cánh cùng các bạn trong cuộc chiến chống lại loại virus này”, bức thư kết thúc.
Còn gì nữa? Chả còn gì. Ngoại trừ tuyên bố được lặp đi lặp lại rằng nếu SARS2 được lắp ghép trong phòng thí nghiệm, thì dấu vết sẽ vẫn còn trong virus. Thật khó để tưởng tượng rằng các nhà virus học đưa ra ý kiến phản đối này lại không biết rằng các phương pháp lắp ráp hiện đại hoàn toàn có thể tránh được điều này.
Làm thế nào mà các tài liệu với một đống biệt ngữ khoa học cố gắng che đậy sự thiếu vắng hoàn toàn của lập luận logic, và những bức thư tập thể được viết theo mẫu của công nông Xô viết, lại trở thành một “sự đồng thuận khoa học”, mà chỉ những kẻ kỳ quặc và những người theo thuyết âm mưu mới có thể chống lại? Chả lẽ không có nhà khoa học nào bày tỏ nghi ngờ sao?
Đã có. Nhóm DRASTIC – ví như Bellingcat sinh học – chủ yếu bao gồm các nhà khoa học: nhà di truyền học, nhà sinh học phân tử, tin sinh học – những người trẻ tuổi, táo bạo và không công nhận các cây đa cây đề. Nikolai Petrovsky người Úc và Alina Chan người Mỹ đã xuất bản một bài báo về khả năng tối ưu hóa tuyệt vời của virus đối với ACE2 ở người. Rossana Segreto và tiến sĩ Stephen Kay đã viết về nguồn gốc nhân tạo của virus từ quan điểm cấu trúc của nó.
Và những người khổng lồ cũng không hề im lặng! Các nhà virus học nổi tiếng David Relman và Richard Albright, cựu giám đốc CDC Robert Redfield, và người đoạt giải Nobel David Baltimore đều không loại trừ khả năng trốn thoát, thậm chí tin rằng đây là lời giải thích “hợp lý nhất”. Để nghi ngờ mối liên hệ giữa dịch bệnh và viện nghiên cứu, một trong những nhà sinh học phân tử lỗi lạc nhất thời đại chúng ta, Richard Albright, giáo sư tại Đại học Rutgers, chỉ cần “một nano giây hoặc pico giây”.
Vậy thì “sự đồng thuận khoa học” ra đời như thế nào?
Ở đây chúng ta vượt ra ngoài khuôn khổ của khoa học và bắt đầu nói về những gì đối lập với khoa học trên góc độ cấu trúc – về hệ tư tưởng và tôn giáo. Nếu khoa học tìm kiếm các sự kiện và thảo luận về chúng, thì hệ tư tưởng ngăn cấm các tranh luận. Nó cố gắng áp đặt cho mọi người một quan điểm phù hợp duy nhất, có lợi cho nhóm lợi ích này khác, và thực hiện điều này bằng cách bác bỏ các sự thật, tiêu diệt đối thủ và áp lực không thể chịu nổi từ một nhóm người, gần như buộc người bất đồng chính kiến phải tham gia vào đa số tuân phục. Chống đối lại đòi hỏi nhiều sức mạnh tinh thần và thể chất, và bị đe dọa bằng sự tẩy chay, mất tài trợ và sụp đổ sự nghiệp.
Tôi không phải là chuyên gia về virus học, nhưng ký hiệu học, từ ngữ và nhận dạng fake là nghề của tôi. Ngay từ đầu câu chuyện này, tôi đã ngạc nhiên về cách thiết chế kiên định chống lại lý thuyết rò rỉ trong phòng thí nghiệm, và cách mà các chiến thuật được sử dụng để chống lại những người ủng hộ nó, giống với những chiến thuật tuyên truyền của độc tài.
Thuyết đó bị coi là di truyền học giả hiệu, thông qua các bức thư tập thể. Họ luôn “chiến đấu” chống lại nó, “đi đầu ở mặt trận”. Cuộc chiến này diễn ra trong khuôn khổ “bày tỏ sự đoàn kết” và sự cần thiết phải “đáp trả”. Bất kỳ người nào ủng hộ thuyết này cũng ngay lập tức bị tuyên bố là người ngoài lề, theo thuyết âm mưu, phát xít và thậm chí là phân biệt giới tính, như bạn đã thấy trong trường hợp của tiến sĩ Rasmussen bị đe dọa tình dục. Lập luận của họ luôn bị bóp méo.
Sau khi Thượng nghị sĩ Tom Cotton thông báo rằng virus có thể đã thoát khỏi phòng thí nghiệm, Cotton ngay lập tức bị tuyên bố là người ủng hộ “thuyết vũ khí sinh học”.
Đây là một trong những dấu hiệu đáng lo ngại nhất của diễn ngôn được tư tưởng hóa. Các nhà khoa học tranh luận về những tuyên bố thực tế. Các kẻ tuyên truyền thì gán các tuyên bố cho bạn, để sau đó “vạch trần” và “bác bỏ”. Các nhà khoa học tranh cãi về thực chất. Những kẻ tuyên truyền thì đánh vào uy tín của kẻ thù. Các nhà khoa học có phản biện. Những kẻ tuyên truyền chỉ có “tiền tuyến”, “kẻ thù” và “chiến tranh”.
Làm sao mà điều này có thể xảy ra?
Cộng đồng khoa học nghiên cứu coronavirus nói chung không lớn. Đây là một nhóm nhỏ, biết lẫn nhau, liên kết chặt chẽ với nhau bởi những lợi ích chung. Nicholas Wade lưu ý: “Họ viết trên cùng một tạp chí, đi dự các hội nghị giống nhau và họ có lợi ích chung là nhận được tiền từ các chính phủ và không bị quy định quá mức”. Xảy ra như vậy là vì các coronavirus trước SARS2 chỉ đại diện cho một mối nguy hiểm tiềm tàng đối với nhân loại (trái ngược với, chẳng hạn như cúm hoặc Ebola), một số lượng lớn các khoản tài trợ đã được nhận chính xác là để nghiên cứu nguy cơ tiềm tàng của chúng, tức là, về gain of function.
Tất cả đều đoàn kết chống lại vụ “rò rỉ phòng thí nghiệm”: Trung Quốc, nước có ảnh hưởng to lớn, thiết chế tự do của Mỹ vốn ghét Trump, và quan trọng nhất, là cộng đồng các nhà virus học với mối liên hệ chặt chẽ với nhau, biết rõ nhau, review nhau và cấp tài trợ cho nhau, mà trong trường hợp thuyết này được xác nhận, có nguy cơ bị thất sủng, mất các khoản tài trợ và địa vị. Tiến sĩ Redfield nói với Vanity Fair: “Tôi bị tuyên bố là một kẻ hạ đẳng (pariah) vì tôi đã đề xuất một giả thuyết khác. – Tôi chờ đợi điều này từ các chính trị gia. Tôi không chờ đợi nó từ các nhà khoa học”.
Nói chung, câu hỏi không phức tạp. Chỉ cần phải giải thích: làm sao mà coronavirus mới lại bắt nguồn từ chính nơi có trung tâm lớn nhất, nếu không phải là trên thế giới, thì ở Trung Quốc, nơi thao túng các coronavirus dơi, và điều này có thể xảy ra như thế nào ở một cái chợ nơi chúng không được bán, trong thành phố mà chúng không sinh sống, và vào lúc những con dơi đã ngủ đông?
Tuy nhiên, câu trả lời cho câu hỏi này đe dọa không chỉ tiến sĩ Daszak và không chỉ người cấp tiền cho ông, tiến sĩ Fauci, người đã ở đỉnh cao hành chính của virus học Hoa Kỳ trong bốn thập kỷ qua. Ông ta đã có thể chôn vùi toàn bộ ngành công nghiệp béo bở: tạo ra virus nguy hiểm để chứng minh rằng chúng có thể nguy hiểm.
Chuyện xảy ra là, những chuyên gia đầu tiên được hỏi liệu virus này có nguồn gốc nhân tạo hay không chính là những người, nếu đưa ra câu trả lời khẳng định, sẽ trở thành kẻ tạo ra đại dịch một cách ngoài ý muốn, mà tính đến ngày nay, đã giết chết 3 triệu người và đã phá hủy nền kinh tế của toàn thế giới.
Có gì ngạc nhiên khi những người này tuyên bố rằng nguồn gốc tự nhiên của virus là không thể phủ nhận như giáo điều không thể sai lầm của giáo hoàng, và rằng có một “sự đồng thuận khoa học” về điều này? Michael Crichton đã từng viết: “Sự đồng thuận khoa học là nơi ẩn náu đầu tiên của những kẻ vô lại. Đây là nỗ lực để tránh thảo luận về một vấn đề, nói rằng nó đã được hoàn thành”
Tin buồn là các quan chức từ khoa học, những người đã tự kiêu ngạo cho mình quyền phát biểu nhân danh cộng đồng khoa học, đã hành xử không giống như các nhà khoa học, mà giống như các giám mục, những người đã xử lý tàn bạo những người hoài nghi và dị giáo. Điều đáng mừng là, bên cạnh “quan điểm của quần chúng tiến bộ”, luôn có những người ương ngạnh đi tìm sự thật. Toàn bộ bộ máy tuyên truyền của Nga đã không thể đối phó với sáng kiến riêng của Bellingcat. Có vẻ như tất cả các tuyên truyền bây giờ đang bắt đầu trượt dài trước sáng kiến DRASTIC.
Dịch bệnh cũng giống như xác chết. Nếu một xác chết nằm bên vệ đường, thì rất có thể đây là một cái chết tự nhiên: đột quỵ, chết rét, uống rượu quá mức,… Nhưng cũng có thể là người đó đã bị giết. Đây là câu hỏi cho cơ quan điều tra. Trong mọi trường hợp, nếu một người thay vì cố gắng tìm xem xác chết có nguồn gốc thế nào, lại cười thiếu tự nhiên và ngay từ đầu đã tuyên bố rằng cái chết đến từ những nguyên nhân tự nhiên, và bất cứ ai không đồng ý với điều này đều là kẻ âm mưu và kẻ ngoài lề, những kẻ không biết rằng con người là người phàm có thể chết – thì kẻ tỏ ra mất bình tĩnh và hung hăng này trông rất đáng ngờ.
Chúng ta có thể nghi ngờ, liệu vi rút có nguồn gốc tự nhiên hay nhân tạo. Nếu vẫn có con vật trung chuyển thì sao? Biết đâu, furin site đã xuất hiện trong quá trình truyền từ người sang người. Đột nhiên, hóa ra sự xuất hiện của một trận dịch ở thành phố nơi đặt trung tâm thao túng gen lớn nhất của coronavirus là một sự trùng hợp viễn tưởng, cũng như việc toàn bộ cơ sở dữ liệu của viện bị phá hủy vào ngày 30/12, và vị trí của những bệnh viện đầu tiên mà người bệnh đến nằm dọc tuyến tàu điện ngầm nối viện Vũ Hán với sân bay quốc tế …
Nhưng, thuyết rò rỉ trong phòng thí nghiệm không mâu thuẫn với dữ liệu quan sát được.
Do đó, thật khó để nghi ngờ rằng những nhà khoa học, như tiến sĩ Daszak, đã chiến đấu chống lại nó bằng những phương pháp đặc trưng cho tòa án dị giáo hơn là các nhà khoa học, đã vi phạm điều răn chính của khoa học, rằng sự thật có giá trị tự thân, và Trái đất luôn quay bất chấp việc vì thế mà bạn mất tiền tài trợ hay bị lên giàn thiêu.
Các bác sĩ thực hiện lời thề Hippocrate. Các nhà khoa học thì không tuyên thệ lời thề của Archimedes hay Newton. Thật uổng.
Kết luận
Từ đây, theo tôi, có ba kết luận chính, cái sau khủng khiếp hơn cái trước.
Đầu tiên, họ đã nói dối chúng ta. Các quan chức khoa học không chỉ ở Trung Quốc, mà còn ở Hoa Kỳ đã hành xử không giống như các nhà khoa học, mà giống như Ủy ban Trung ương của đảng CS Liên xô sau Chernobyl.
Vấn đề không phải là về nguồn gốc nhân tạo của virus. Shit happens. Điều đặc trưng cho một hệ thống không phải là lỗi, mà là phản ứng đối với lỗi. Vấn đề không phải ở chỗ virus đã thoát hoặc có thể thoát. Mà ở chỗ là, những người chắc chắn hiểu rằng khả năng này là hoàn toàn có thật, đã sử dụng tư cách khoa học của họ không phải để xác lập sự thật, mà để cấm đoán thảo luận. Không còn nghi ngờ gì nữa, họ đã giải thích điều này bằng nhiều động cơ cao cả khác nhau – ví dụ, “nếu không thì công chúng ngu ngốc sẽ đến đập phá các phòng thí nghiệm”. Than ôi, họ chỉ làm cho mọi thứ tồi tệ hơn.
Một trong những người đối thoại của tôi, người theo thuyết về nguồn gốc tự nhiên của virus, nói: “Chà, ngay cả nếu là virus trốn thoát, thì có khác gì nhau? Có thay đổi điều gì?”
Thật là lạ khi nghe những lời như vậy từ một nhà khoa học. Sự khác biệt là sự thật tự nó có giá trị. Một nhà khoa học thực sự – cũng giống như một thẩm phán liêm khiết – nên quan tâm đến việc thiết lập sự thật, bất kể xung quanh là ai. Hãy tưởng tượng, một người nào đó sẽ đến gặp thẩm phán và nói: “Nghe này, tôi có một xác chết trong căn hộ, kẻ thù của tôi nói rằng người đàn ông đã bị giết, nhưng xin hãy nói rằng anh ta chết một cái chết tự nhiên. Đối với người chết thì có khác gì”
Quan sát khó chịu thứ hai là Tổng thống Trump và chính quyền của ông nhiều lần nói rằng virus đã thoát ra khỏi phòng thí nghiệm. Những từ này đã không được xác nhận bởi các nhà khoa học hay tình báo. Và bây giờ, hóa ra virus hoàn toàn có thể đã thoát ra. Điều này có nghĩa là tình báo – một cộng đồng khác, giống như các nhà khoa học, phải thiết lập sự thật thay vì tham gia vào chính trị – đã tham gia vào một trò chơi chính trị phức tạp. Có vẻ như tình báo Mỹ đang che chắn cho Đảng Cộng sản Trung Quốc để bòn rút vị tổng thống được bầu hợp pháp của Mỹ.
Và cuối cùng, tình trạng thứ ba, lấn át cả hai cái trên.
Chúng ta phải hiểu rõ ràng rằng COVID-19 chỉ là dấu hiệu đầu tiên. Thậm chí mới 20 năm trước, việc thiết kế virus là không thể. Bây giờ chúng có thể được tạo bởi một sinh viên năm cuối. Một thời gian nữa – và học sinh sẽ có thể nấu virus ở nhà bằng chảo. Nó có thể được nấu bởi bất kỳ kẻ cực đoan ít học nào, với tưởng tượng rằng mình là Chúa trời. Bất kỳ người đàn ông Hamas lắp tên lửa phát nổ ở sân sau nào cũng sẽ đi pha chế một loại virus mà anh ta cho là sẽ chỉ tấn công người Do Thái – nhưng rồi hóa ra anh ta đã sai một chút về “chỉ người Do Thái”, và lãnh tụ Hồi giáo sẽ giải thích trong buổi cầu nguyện ngày thứ Sáu, rằng chính người Do Thái đã chế ra nó.
Bom hạt nhân không thể được lắp ráp trong nhà kho, nhưng virus thì có thể. Một phòng thí nghiệm để thực sự tạo ra virus có giá một triệu đô la. Rẻ hơn du thuyền.
Không, đây không phải là lý do để ngừng nghiên cứu. Gain of function theo nghĩa rộng của từ này không chỉ là ăn tiền tài trợ. Đó cũng là chiến thắng ung thư, chiến thắng bệnh Alzheimer, chiến thắng các bệnh di truyền, kéo dài tuổi thọ. Cuộc sống vĩnh cửu ở một bên bàn cân, bên kia là covid.
Không thể dừng quá trình này.
Tất nhiên, bạn sẽ nói rằng quá trình này cần được quản lý, nhưng câu hỏi ngược lại là – với sự trợ giúp của ai?
Với sự giúp đỡ của thiết chế khoa học, mà trong toàn bộ câu chuyện này đã cư xử giống như một Lysenko tập thể? Các chính quyền? LHQ? Với sự giúp đỡ của người đứng đầu WHO Tedros Adhanom Ghebreyesus? Bộ trưởng của chính phủ Mác-xit Ethiopia, người đã gọi bệnh dịch tả là “tiêu chảy cấp tính” và được bổ nhiệm nhờ Trung Quốc? Trên thực tế, viễn cảnh này còn đáng sợ hơn bất kỳ sự thiếu quản lý nào.
Rất có thể, đơn giản là chúng ta phải trải qua quá trình này. Giống như loài người đã sống sót sau quá trình công nghiệp hóa ban đầu – với khói từ ống khói, với 16 giờ làm việc trong các nhà máy, với bệnh phổi do bụi than và ung thư phổi do amiăng – thì cũng sẽ phải sống sót qua quá trình tin sinh hóa sơ khai. Trong quá trình đó, mỗi sinh viên sẽ có thể lấy RBM S-protein của tê tê, lấy một furin site, trồng nó trên cơ sở một loại virus khác, đưa nó qua những con chuột được nhân hóa – và nhận được SARS2. Hoặc gì đó tệ hơn.
Ồ vâng. Nhân tiện. Bạn có nhớ khoản tài trợ mới mà Fauci đã trao cho Daszak, trị giá 7,5 triệu đô la không? Đây là khoản tài trợ dành cho việc nghiên cứu các loại virus có thể lây truyền sang người ở Nam Á. “Chúng tôi sẽ làm việc ở những nơi xa xôi ở Malaysia và Thái Lan để đi đầu, nơi một dịch bệnh mới sẽ bắt đầu,” Tiến sĩ Daszak xúc động nói sau khi nhận được nó.
Tôi tin tưởng tiến sĩ Daszak. Tương lai của chúng ta đang ở trong những bàn tay đáng tin cậy.
*Chimera – thuật ngữ di truyền học dùng để chỉ một cơ thể sinh vật hoặc một mô hay một cơ quan mang nhiều bộ NST khác nhau (gồm nhiều bộ ADN khác nhau), thường được tạo thành qua sự hợp nhất của nhiều hợp tử khác nhau hoặc sự dung hợp các bộ gen khác nguồn. Chimera là quái vật trong thần thoại Hy lạp. (wikipedia tiếng Việt)
** Một codon (một trinucleotide được mã hóa) là một đơn vị của mã di truyền, một bộ ba của các gốc nucleotide (triplet) trong DNA hoặc RNA, thường mã hóa sự tham gia của một axit amin. Trình tự các codon trong một gen xác định trình tự của các axit amin trong chuỗi polypeptide của một protein được mã hóa bởi gen đó.
*** Dao cạo Ockham là lý thuyết triết học cho rằng, nếu một vấn đề khoa học được giải thích bằng ít giả thuyết nhất thì sẽ đúng đắn nhất.